Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Cha ơi ! con đã quên,

Vợ sinh. Tôi đón cha lên thành phố. Nếu nói là đón mẹ lên thì thích hợp với hoàn cảnh hơn.. Nhưng mẹ tôi đã xa cõi đời từ lúc tôi lọt lòng. Sự ra đi của mẹ, trong thâm tâm tôi vẫn luôn là một sự đánh đổi quá nghiệt cùng của tạo hóa, mà nỗi đau đớn còn dành lại một vị đắng ở đầu môi. Và người ở lại phải sống tốt cho cả hai phần đời.Tôi đã có thật nhiều cố gắng. Cha tôi, người đàn ông lam lũ. Cha gầy, gầy lắm, mà không phải chỉ gầy do sức khỏe, mà thời gian đã ngấm dần trong từng thớ thịt cha, già cỗi và yếu ớt.
Người đàn ông cô độc ngần ấy tháng năm của tôi. Bao nhiêu lần ôm cha ngủ.
Từ bé, lúc lớn lên đi xa trở về, hay khi tôi đi làm có tiền thường gọi điện cho ông: “cha, lên thành phố với con, con lo được mà”.
Ông hỏi dò “có thiệt không đó, cu con, không để tiền cua gái hả?” Rồi ông cười khà khà.
Hôm sau ông đã có mặt ở nhà tôi. Mang nào gà, nào vịt, nào trái cây. Và không quên mang theo một cúc rượu để cha con nhâm nhi.
****
… Nhưng sao lần này, nằm cạnh ông, nhìn ông ngủ, tôi …tôi không diễn tả nỗi cảm xúc của mình. Nước mắt ở đâu cứ như nước sôi đang đun trào, cứ thế đẩy vung mà ra !
Chắc vì tôi mới được làm cha, chắc lẽ thế. Tôi lấy vợ rất muộn. Vợ là người thành phố, con nhà danh giá.
Nhưng với nỗ lực và cố gắng của mình, tôi độc lập về kinh tế, không phải dựa bóng nhà vợ.
Khi mọi người quây quần quanh thằng Mỏ (con trai yêu quý của tôi), nhìn nó kháu khỉnh đáng yêu quá. Nhà vợ rất đông người tới. Ai cũng đòi được bế thằng Mỏ nụng nịu. Bà ngoại thằng Mỏ (là người rất khó tính) nói : “ông Nội bế cháu đích tôn một chút này”, cha đưa tay ra định bế thì bà ngoại khựng lại. “Trời ơi, tay ông nội sao thế, thế thì hỏng da của cháu mất….”. Bà ngoại giữ thằng Mỏ lại trong lòng, vừa nói vừa nhìn bàn tay cha tôi dò xét…
- “Ờ….vâng, tôi lỡ…để tôi…đi rửa..”. Cha tôi ấp úng rồi đi ra nhà sau để rửa tay.
- “À, chắc ông mới làm than đó má”.
Tôi nói đỡ, rồi theo cha ra sau. Mọi người lại xúm lại đòi bế thằng Mỏ. Cha tôi rửa tay, và đúng là ông làm than thật. Tức là ông phơi mớ than củi mang từ quê lên để cho vợ tôi nằm hong, khỏi nhức mỏi đau lưng sau này.
Nhưng ông làm xong từ sáng sớm rồi kia mà, lẽ nào cha tôi đã già nên lẫm cẫm rồi, chẳng còn nhớ mà rửa tay nữa.
- Cha ơi… Thấy ông đứng cặm cụi rửa tay, khó nhọc. Tôi tiến lại “cha, để con rửa cho cha”.
- “Thôi đi cu con, hồi bé cha rửa tay rửa chân cho mày, giờ học đòi à, nhưng chưa đến lúc đâu….”.
- “Đưa con coi nào”, tôi giằng lấy tay ông. Trời ơi, hai bàn tay ông chai sần, những lớp da bị tróc mẻ, nham nhỡ đỏ lừ. “Cha bị sao thế, cha đừng rửa bằng xà bông nữa”…Tôi nói.
- “Ờ, hồi trước, hồi trẻ ấy, cha mày đi xây, bị xi ăn, bị dị ứng.. Hôm qua tao thấy trước sân nhà mày có chỗ bị hỏng, tao hòa ít xi gắn lại. Ai ngờ lâu thế mà nó cũng bị lại…”
Ông nói rồi lững thững đi vào. Vừa đi vừa chùi chùi hai bàn tay vào áo, cái dáng còng còng như oặn trĩu bởi yêu thương. Cha bước đi không còn vững nữa rồi, năm tháng ơi.…..

*****
Là trưởng phòng kinh doanh một công ty, tôi đi tối ngày, tranh thủ chạy về lúc trưa, lúc tối muộn. Nên cha làm gì, mọi người làm gì tôi cũng không rõ hết. Nhà tôi ở ngoại ô. Có một khoảng sân nhỏ, trồng một ít cây cối. Trong những tháng ngày này, được làm cha, được sống trong cảnh gia đình sum vầy thế này. Tôi ngỡ cuộc đời như một giấc mơ. Hay đúng hơn là cuộc đời ai rồi cũng đến lúc sống đúng như một giấc mơ, khi đã cố gắng thật nhiều. Từ chuyện bàn tay, mà cha chưa bế cháu Mỏ một lần nào. Không chỉ vì ánh mắt e dè của bà ngoại thằng Mỏ. Mà có lẽ ông tự ái (bệnh người già mà), ông muốn mọi người được vui. Và hơn hết ông thương thằng Mỏ, như bà ngoại nói “da cháu còn nhạy cảm, như thế là không tốt”.
Tôi cũng chỉ im lặng. Vì nghĩ mọi thứ đều hợp lý. Hay tại vì cha là đàn ông (yêu thương để trong lòng), ít ra cha cũng không như bà ngoại, khi một ngày không ẵm thằng Mõ vài lần nũng nịu là ăn cơm không nổi.
Thế là cha tôi, ngày ngày lầm lũi ngoài khoảng sân nhỏ. Ông nấu nước Vằng (một loại lá cho người đẻ uống rất tốt), ông quét sân, thỉnh thoảng qua chỗ mấy ông già cùng khu phố ngồi chơi. Rồi lại thỉnh thoảng về ngắm thằng Mỏ. Vợ tôi còn bảo “ở nhà ông còn giặt cả tả, quần áo cho Mỏ”. Mặc dù có bà ngoại, hay mấy cô em vợ tôi, mà họ toàn giặt máy. Nhưng khi chưa kịp bỏ vào máy là ông lại bê đi giặt tay. Bà ngoại cũng không muốn ông phiền lòng, nên cũng đành im lặng. Nhưng tôi biết sau đó bà ngoại lại lén bỏ vào máy giặt lại, may mà bà không để cha biết….
Thời gian cứ thế trôi đi, cuộc sống bình lặng êm đềm. Nhưng tình cảm trong tôi đang dậy sóng, vì cái từ “Cha” thiêng liêng, mỗi lúc vợ hay bà ngoại bế thằng Mỏ đều chỉ vào tôi bảo “gọi ba đi, ba ba, ba ba”. Thằng bé chỉ nhìn rồi cười, đáng yêu vô vàn vô tận…
Cho đến một ngày, khi tôi đang đi công tác tỉnh, vợ gọi điện “chồng, về nhà đi, ông nội vào viện rồi”. Tôi về ngay, về liền. Cha tôi đứng lên chiếc ghế đẩu để phơi tả cho thằng Mỏ, bị trượt ngã. Khi tôi về đến nơi ông đã tỉnh, bác sĩ bảo chỉ bị chấn thương nhẹ, cần điều trị vài ngày là hết. Tôi thở phào. Bà ngoại và vợ nhìn tôi ái ngại. Tôi về nhà lấy đồ cho cha.. Tôi lục túi của ông. Một ít quần áo, một tút thuốc quê đã hút phần nữa (cha tôi nghiện thuốc lá). Và…một cuốn sổ, nhỏ bằng lòng bàn tay, màu nâu cũ kỹ, một chiếc bút được kẹp ở giữa. Tôi tò mò, tôi mở nó ra, mở ngay trang đang kẹp bút. Tôi đọc: “Vậy là cháu nội tôi đã chào đời được một tuần. Nhìn con trai vui, mới biết mình đã già, đã sống hết phần đời mình mất rồi. Buồn vui lẫn lộn. Khi về bên kia gặp vợ, có thể an lòng.. Nhưng mà sao già này buồn quá.. Muốn được ôm thằng Mỏ vào lòng quá. Mà….
Già này nhớ những tháng ngày xưa, khi vợ bỏ lại hai cha con ra đi, một mình nuôi con trai. Một mình bế nó trên tay, một mình cho nó uống sữa, một mình ru nó ngủ, trong đêm thâu…. Ôi! mới như hôm qua đây thôi, mà sờ lên mái tóc đã bạc trắng mất rồi. Con trai à, cháu Mỏ à, già này yêu hai cu lắm….Bàn tay chết tiệt này,sao mày lại giở chứng đúng lúc thế….”Tôi lật tiếp những trang viết đầu, những ngày tháng đầu đời: “Vợ anh nhớ em, nhớ nhiều…anh không có gì để ví được”…. “Em yên lòng, anh sẽ nuôi con, anh sẽ sống cho cả hai cuộc đời, anh sẽ làm được…” “Vợ, anh không chịu được nỗi đau này…..” “Vợ ơi…” Dài lắm, tôi đọc mãi, đọc mãi, đến lúc những dòng chữ ngoệch ngoạc của cha nhòa đi bởi nước mắt tôi nhỏ xuống. Tôi mới dừng lại.
Cha viết nhật ký. Ông giấu tôi kỹ quá, giấu tài quá. Đàn ông như cây Lim cây Táu, mà tâm hồn ông như Liễu như Mai, rũ xuống vì yêu thương, rũ xuống vì tình cảm, rũ xuống vì cô độc. Ôi, cha già của con ! “Anh ơi làm gì lâu thế, làm nhanh lên đưa đồ vào cho nội thay đi, anh còn ngủ ư”. Vợ tôi kêu vọng lên lầu. “Ờ…anh biết rồi….”. Tôi quẹt nước mắt. Gấp nhật ký của cha, bỏ lại cẩn thận. Tôi phải lén đi ra, bởi không muốn ai nhìn thấy mình đang khóc, rồi phi ngay xe tới bệnh viện.
Cứ tưởng được làm cha, cảm thấu được nổi thương xót khi cha mình đã ở tuổi xế chiều. Nhưng mà, thực sự giờ tôi mới nghiệm ra một điều, là với cha mẹ, dù mình có đi mòn cả lối đời cũng không thể nào thấu hết những tình thương yêu mà họ dành cho con cái. Không thể hết được đâu. Cho nên, dù ở vị trí nào, cũng chỉ biết sống cho tốt, cho thật tốt, thế mà vẫn cảm tưởng như tình cảm mình đáp lại cho mẹ cha cũng chỉ là gáo nước giữa đồng khô nắng cháy mà thôi. Những hình ảnh về cha hiện lên trong đầu, mắt tôi đỏ ngầu hoen lệ, chứa chan. “Cha…”,
Tôi mở cửa phòng bệnh viện. “ Gì đấy cu con, cha đây mà, cha có trốn đi đâu chớ, cái thằng này”. Cha vẫn gọi tôi như thế. Cả phòng bệnh đông lắm. Cha tôi ngồi dựa vào tường, tay đưa gói bánh cho đứa trẻ con ai ở giường bên, cha bụm bụm vào má nhóc con đó. Tôi chạy lại, mặc kệ ai nhìn, mặc kệ là gì đi nữa, tôi ôm lấy cha. Tôi quay mặt vào tường, cho những giọt nước mắt lăn chảy không ai thấy, tôi nói trong tiếng nấc:
- “Cha, xin lỗi cha, con đã quên……”.
Bệnh viện âm thanh ồn ả vốn dĩ, mà sao tôi nghe yêu thương đập đầy trong tim……

(Không biết tác giả)

Trời cao biển rộng

Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế. Trời, vẫn chỉ là một vòm không gian hữu hạn trong tầm mắt con người; biển, là bốn đại dương trên mặt địa cầu; không thể nói là vô biên, vô lượng.
Tình thương của cha mẹ dành cho con cái, thì khác: không giới hạn.

Tình thương vô hạn chỉ khi nào nó được biểu lộ một cách không điều kiện, không phân biệt và so sánh đối tượng (hư hay nên; xấu hay đẹp; cãi lời hay vâng lời), và quan trọng nhất: không đòi hỏi sự đền đáp.
Người Á-đông có vẻ xem thường nền văn hóa thực dụng của tây phương, nhất là trong tương quan tình cảm và ứng xử giữa cha mẹ và con cái; cho rằng con người ở đó không biết, không sống với chữ Hiếu—đạo lý lâu đời của truyền thống đông phương; và vì không có Hiếu đạo, gia đình và xã hội trở nên bất toàn, rối loạn. Quan niệm này đúng trong nhiều trường hợp, nhất là đối với những người con: không nhắc nhở, không gợi ý, thì đứa con có thể không nhớ và không cảm thấy mình có bổn phận phải làm điều gì đó để gọi là đền đáp công ơn sinh dưỡng rất to lớn của cha mẹ.
Cha mẹ và con cái ở xã hội tây phương, do nếp suy nghĩ truyền thống và cũng do vì phúc lợi và an sinh xã hội được cung cấp đầy đủ bởi guồng máy chính phủ, thường không có ý niệm hay nhu cầu về sự đền đáp khi cha mẹ về già. Những đứa con tây phương được sinh dưỡng tự nhiên trong gia đình, ăn học, lập thân, rồi trở thành những bậc cha mẹ nuôi dạy con cái thế hệ kế tiếp, mà không hề bận tâm, lo nghĩ việc báo đền ân đức cha mẹ. Điều mà con cái tây phương dành cho cha mẹ là lòng thương kính, biết ơn, chứ không có bổn phận hay trách nhiệm “nuôi” lại cha mẹ lúc tuổi già. Cha mẹ tây phương không vì con cái không chăm nom mình mà gán tội bất hiếu, bất nghĩa; bởi vì họ vốn không đòi hỏi sự báo đáp nào ngay từ lúc ban đầu mới sinh con, nuôi con. (Từ điểm này, có thể đặt dấu hỏi là cha mẹ tây phương có “thực dụng” không, hay ngược lại!)
Trong khi đó, cha mẹ và con cái ở xã hội đông phương, sống với đạo Hiếu cao đẹp lâu đời, luôn được nhắc nhở về sự đền ơn, ngay từ lúc con cái còn ấu thơ. Còn nhỏ chưa biết sinh kế thì phải ngoan ngoãn, biết nghe lời, chăm học, học giỏi (làm ngược lại thì đều là bất hiếu); trưởng thành thì phải biết sinh nhai để tự lo bản thân, lập gia đình, có con nối dõi, và “nuôi” lại cha mẹ lúc tuổi già không người chăm sóc (không làm được điều sau cùng này thì bất hiếu; hoặc có làm mà kể lể quá thì cũng bất hiếu, cho nên mới có câu than oán trong tục ngữ: “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày”). Nói chung, con cái đông phương được giáo dục phải nói, nghĩ và làm gì để đền đáp công ơn cha mẹ, nên việc tri ân báo hiếu là điều tự nhiên.
Từ sự khác biệt trên, có thể nói là đông hay tây phương đều có nét đẹp cần áp dụng cũng như điểm không hay cần thay đổi. Có thể đề nghị một hình ảnh lý tưởng như vầy chăng: làm con, nên sống như người con phương đông; làm cha mẹ, nên sống như cha mẹ phương tây.
Yêu thương, tận tụy nuôi dưỡng con cái mà không đặt điều kiện hay đòi hỏi bất kỳ sự báo đáp nào, thì tình thương của cha mẹ, trời biển cũng không sánh bằng.
Tình thương vô hạn ấy tất nhiên sẽ được cảm nhận từng ngày bởi con cái từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành, để rồi với niềm thương kính tự nhiên và chân thành, con cái tự biết cần làm gì để bày tỏ sự nhớ ơn và lòng thương của mình đối với cha mẹ; không cần phải kêu gọi, nhắc nhở, trách móc hoặc gán những tội danh nào đó cho con.
Làm con, không phải tất cả đều sẽ làm cha mẹ khi trưởng thành; nhưng tất cả bậc cha mẹ đều đã là những người con. Hãy nhìn những gì đang làm cho con cái ngày nay mà tưởng nhớ những gì cha mẹ đã làm cho mình trong quá khứ; tự hỏi mình đã làm gì trong vai trò đứa con đối với cha mẹ, đừng đặt vấn đề con cái sẽ làm gì cho mình ở tương lai. Có điều kiện, không điều kiện, vô hạn hay hữu hạn, đều bắt đầu từ vị trí làm cha mẹ. Đừng đặt tình thương bao la của mình dành cho con vào bất cứ cái khuôn nào, dù là cái khuôn được cho là truyền thống cao đẹp; bởi vì có khuôn khổ là có điều kiện; có điều kiện thì không còn vô hạn, vô biên.
Người con Phật dấn thân vào đời có một câu nằm lòng: “Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là việc làm có mưu tính.” Bậc cha mẹ cần hành xử như thế đối với con cái. Cũng có thể nói ngược lại rằng, người con Phật khi cứu giúp chúng sanh, nên học tinh thần ấy từ nơi lòng thương không điều kiện của cha mẹ dành cho con cái. Không điều kiện là bước khởi đầu cho hành trình làm cha mẹ, cũng là bước khởi đầu của bồ-đề tâm, của bồ-tát hạnh.
Và hạnh phúc thay cho những người con khi gần gũi cha mẹ, như được tắm gội trong đại dương yêu thương bất tuyệt; và khi xa, nhớ về cha mẹ như bầu trời êm ả, che chở và bảo bọc lấy mình giữa cuộc đời đầy bất trắc, gian nan.
Trời cao, biển rộng, không đủ lớn để hình dung hay so sánh tình thương cha mẹ; bởi vì không phải lúc nào, ở đâu, cũng có thể nhìn thấy trời, biển. Nhưng cha mẹ thì luôn luôn, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, cũng ngự trị trong lòng con.

Vĩnh Hảo

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín




NHÂN

Thời nào cũng vậy, chữ nhân luôn đặt lên hàng đầu, là quan trọng hơn cả, nó đã là bao quát, là đạo làm người. Dù thời xưa hay thời nay chữnhân đó vẫn thể hiện trong cách sống của mỗi con người. Cách đối nhân xử thế, tấm lòng của con người giữa đời thường, cũng như vai tròtrách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội.
Chữ nhân trong mỗi người không chỉ là một tấm lòng, tấm lòng yêu thương con người, quê hương đất nước mà còn biết gắn cái riêng củamình vào cái chung của xã hội hiện tại, với sự ràng buộc giữa người với người, bằng những mối liên quan gắn kết.





NGHĨA

Muốn thực hành chữ nghĩa, thì phải noi theo câu: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn”. Những việc gì ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổthảm sầu thì ta không nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa.
Chữ nghĩa bao hàm rất lớn thay. Như là nghĩa cha con, nghĩa thầy trò, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chigiao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ tư-cách làm người cao trọng.
Chữ nhân và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có 4 câu dạy rằng:

Làm người nhân-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
Làm người nhân-nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa.



Nghĩa ở đây thể hiện vai trò, trách nhiệm của con người với người, giữa người với đời, với xã hội hiện tại. Sống ở đời cần có một trách nhiệmvới đời, cũng chính vì vậy mà cần có nghĩa, sống có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình, với anh em bằng hữu cũng là nghĩa.Biết trả ơn khi mình đã nhận được những điều may mắn trong cuộc sống – đó cũng là nghĩa. Tại sao có nhiều người luôn biết quan tâm giúpđỡ mọi người trong xã hội, làm từ thiện tri ân với đời… cũng vì họ sống có nghĩa với đời, với cuộc sống hiện tại, họ biết cho khi đã nhận.
Nghĩa cũng là sống cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá nhân mình.

LỄ




Xem qua cách hành xử, ứng xử cùng với những nghi thức, lễ nghi đúng thủ tục, hợp lòng người trong cuộc sống đương thời mà qua đó xã hộiđánh giá đến sự hiểu biết của một cá nhân, phải đạo với trời đất, hợp đạo với đời.
Con người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí là do nơi biết giữ lễ, còn bị tội lỗi làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê baikhinh bỉ nhục-nhã, là do nơi thất lễ.
Nếu đánh giá một con người, một gia đình mà chỉ xét qua cách hành lễ nghi thôi không xét về nghĩa thì quả là thiếu sót. Bởi có nhiều ngườitrong xã hội hàng ngày hành sự có thừa lễ nghi nhưng nghĩa thì lại thiếu.

TRÍ




Nếu muốn làm được việc nghĩa thì phải có trí, phải có một sự hiểu biết nhất định ở xã hội. Có nhân, có nghĩa mà không có trí thì chẳng khácnào một người lính ra trận chỉ có áo giáp mà không có gươm, đao, chỉ bảo vệ được mình mà không bảo vê được người khác. Sống ở đời nếuchỉ sống cho riêng ta thì đơn giản quá, mà muốn giúp đỡ được người khác tất mình phải có tài, có hiểu biết.
Trí là một sự hiểu biết, người không trí, không hiểu biết thì quả là một thiệt thòi lớn, có thể nói người không trí không làm được gì cả. Nếunhư ngày xưa đánh giá chữ trí của một con người qua sự hiểu biết về đạo quân tử, triết lý Khổng giáo, Lão giáo hay Phật giáo thì ngày nayngoài sự hiểu biết về lĩnh vực văn hóa xã hội, triết học thì cần có một sự hiểu biết về khoa học tự nhiên, bước sang thế kỷ XXI, với cuộc sốnghiện đại, thông tin chóng mặt thì điều đó là cần thiết. Hiểu biết nhiều có thể làm được nhiều việc có ích với đời nếu người đó có nhân, cónghĩa trong tâm.

TÍN

Chữ tín là bằng hữu của uy tín, thủy chung trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, dù hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi làngười biết giữ uy tín.
Chữ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, dù thời xưa hay thời nay thì sống ở đời mọi người cũng cần có một uy tín nhất định trongquan hệ với mọi người xung quanh. Thời xưa cái uy tín với bạn bè luôn được đánh giá cao, uy tín đó sẽ gây dựng được lòng tin, mọi người tintưởng sẽ dễ dàng được mọi người giúp đỡ trong cuộc sống. Nói thì phải làm, sống trung thực với mọi người, với bản thân.



Ngày nay cũng vậy cho dù anh có tài nhưng không có được uy tín thì cũng chẳng ai theo, muốn được người khác giúp đỡ thì bản thân mìnhphải giữ được lòng tin trước mọi người, chưa nói đến trong quan hệ làm ăn ở xã hội, chữ tín cái uy tín trong công việc luôn đặt lên hàng đầu,quyết định đến sự thành công.
Nói chung, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín luôn có sự gắn kết với nhau, làm con người mà thiếu đi một cũng không được. Như bài thơ sau:

Người không có Nhân thì sẽ thành kẻ độc ác.
Người không có Nghĩa thì sẽ thành kẻ bội bạc.
Người không có Lễ thì sẽ thành kẻ vô phép.
Người không có Trí thì sẽ thành kẻ ngu ngốc.
Người không có Tín thì sẽ thành kẻ giả dối.



( ST)

Làm sao đối phó với bệnh tật?

Tất cả chúng ta đều có thể bị bệnh. Một khi chúng ta được sinh ra trong vòng luân hồi sinh tử với thân thể này thì có nghĩa là chúng ta đã chịu sự ảnh hưởng của những phiền não và nghiệp chướng, cho nên bị ốm đau là điều không thể nào tránh khỏi. Đó cũng chính là bản chất của cơ thể chúng ta - thân thể này sẽ già đi và sẽ bị bệnh.
Vậy thì làm sao để chúng ta đối phó với bệnh tật khi nó đến? Chúng ta có thể cảm thấy thương cho bản thân mình. Chúng ta có thể đổ lỗi cho người khác. Chúng ta có thể tức giận. Chúng ta có thể làm cho bản thân và mọi người xung quanh phải khổ sở. Những cách làm như thế liệu có thể chữa được bệnh không? Không, tất nhiên là không.


Nguyên nhân gốc rễ của bệnh tật chính là sự sinh ra. Nếu chúng ta không muốn bị bệnh thì chúng ta không nên để mình sinh ra trong luân hồi sinh tử. Vậy, làm thế nào để chúng ta thoát khỏi việc sinh ra trong luân hồi sinh tử? Chúng ta có thể thoát ra ngoài vòng luân hồi sinh tử bằng cách loại bỏ các nguyên nhân chính, đó là vô minh và tham ái.



Đức Phật thăm một Tỳ-kheo bị bệnh - Tranh vẽ mô tả theo
Ma-ha Tăng kỳ luật, quyển 28, Đại chính tân tu Đại tạng kinh, tập 22, trang 455b

Tất cả chúng ta đều nghĩ: “Vâng, tôi phải thoát khỏi sự vô minh”. Nhưng sau đó thì lại nghĩ: “Hiện tại tôi đang có một cuộc sống tốt. Tôi còn trẻ và toàn bộ cuộc sống đang chờ đợi tôi ở phía trước. Có rất nhiều thứ tôi có thể làm. Có quá nhiều người tôi muốn ở bên họ. Có nhiều người tôi phải quan tâm, chăm sóc. Tôi muốn có một sự nghiệp. Tôi muốn đi du lịch. Tôi muốn có tất cả những niềm vui. Tôi muốn làm việc này, việc kia”.
Vâng, đó là những gì chúng ta đã làm trong nhiều đời nhiều kiếp. Chúng tôi đã trì hoãn trong nhiều đời nhiều kiếp. Và những gì chúng ta làm đã dẫn chúng ta đi đâu? Chúng ta hết tái sinh lần này lại tái sinh lần khác trong cõi luân hồi sinh tử vì chúng ta tiếp tục trì hoãn. Tại sao chúng ta trì hoãn? Vì chúng ta còn tham ái.
Nguyên nhân đau khổ của chúng ta là do vô minh và tham ái. Vậy, tại sao chúng ta không loại bỏ sự vô minh và tham ái ấy đi? Tại vì chúng ta còn vô minh và tham ái. Chúng ta phải quán xét hoàn cảnh một cách rõ ràng. Chúng ta phải phát triển lòng can đảm để nhìn vào hoàn cảnh mà chúng ta đang sống, và sau đó nỗ lực để nhận thức rõ bản chất tối hậu của hiện thực, sự giả huyễn, trống không của tất cả mọi sự vật, hiện tượng. Thông qua đó chúng ta loại bỏ sự vô minh dẫn đến sanh, lão, bệnh, tử.
Trước khi chúng ta có thể nhận chân được bản chất giả huyễn, trống không của vạn hữu, có một số cách khá thú vị để chúng ta có thể tự giúp mình đối phó với bệnh tật.
Trước hết, để đối phó với bệnh, chúng ta hãy quán xét tâm mình và nhìn lại cách chúng ta phản ứng đối với bệnh tật.
Khi bị bệnh, chúng ta thường hãy tưởng tượng và phóng đại sự thực. Thật ra, điều chúng ta cảm nhận lúc đầu chỉ là cảm giác về sự khó chịu trong cơ thể - chỉ là cảm giác về thể chất. Sau đó, tùy thuộc vào cách chúng ta liên tưởng đến cảm giác về thể chất ấy mà chúng ta có thể tạo ra nhiều nỗi đau về tinh thần. Khi chúng ta phản ứng với cảm giác về thể chất bằng sự sợ hãi và vẽ ra những câu chuyện kinh dị thì chúng ta đã tạo ra hàng tấn đau khổ về tinh thần.
Nếu chúng ta có thể dừng lại sự tưởng tượng, phóng đại những bệnh tật của mình và chỉ đơn thuần là nhận diện cảm giác về thể chất thì chúng ta sẽ không tạo ra quá nhiều đau khổ về tinh thần. Cảm giác về thể chất ấy sẽ trở thành một cảm giác để trải nghiệm. Nó không phải là một cái gì đó khiến chúng ta phải lo sợ, một cái gì đó khiến chúng ta phải căng thẳng. Nó chỉ là một cảm giác, và chúng ta hãy để cho cảm giác ấy biểu hiện đơn thuần.
Trong khi chúng ta hành thiền, chúng ta trải nghiệm những cảm giác về thể chất khác nhau. Nếu chúng ta gán cho cảm giác ấy cái tên “đau ở đầu gối” thì sau đó chúng ta bắt đầu bị đau thực sự. Nhưng nếu chúng ta gọi đó là “cảm giác” và chúng ta không có khái niệm về đầu gối thì nó chỉ là một cảm giác. Đâu là cảm giác? Đâu là thân thể?
Bạn có thể thử nghiệm điều này với nhiều cách khác nhau trong việc vui đùa với những trải nghiệm vật lý về cơn đau trong lúc hành thiền, thay vì để rơi trở lại vào các thói quen căng thẳng xung quanh nó và sợ hãi của nó.
Một cách khác để đối phó khi chúng ta bị bệnh là hãy nghĩ: “Tôi đang bị bệnh, thật là tuyệt vời!”. Đây là lối suy nghĩ trái ngược với những gì chúng ta thường nghĩ. Các phương pháp đối trị trong giáo pháp dành cho những phiền não của chúng ta hầu hết đều hoàn toàn trái ngược - nói chính xác, đấy là những điều mà chúng ta không muốn làm. Trong trường hợp này cũng vậy, khi bị bệnh, chúng ta hãy nghĩ rằng: “Thật là tuyệt! Thật là tuyệt vời vì tôi bị bệnh”.
Sở dĩ chúng ta bị bệnh là vì những nghiệp xấu mà chúng ta tạo ra trong quá khứ. Và bây giờ các nghiệp xấu ấy được chín muồi và thể hiện qua hình thức những bệnh tật, do vậy những nghiệp ấy không còn che lấp tâm trí của chúng ta nữa. Có thể là những nghiệp xấu sẽ tạo thành sức mạnh để dẫn dắt chúng ta tái sinh vào những cảnh khổ (như địa ngục, ngạ quỷ hay súc sinh) trong một thời gian khá dài, nhưng bây giờ nó chín muồi và biểu hiện qua một số căn bệnh nhẹ. Nếu chúng ta nhìn vào bệnh tật theo cách này thì những căn bệnh mà chúng ta đang mắc phải sẽ trở nên dễ điều trị hơn. Nó không phải là một cái gì đó đáng phải kinh sợ. Nó không xấu.
Cho nên, bất cứ khi nào chúng ta bị đau nhức, bị bệnh, nếu chúng ta nhìn nhận về nó theo hướng tích cực và nhẹ nhàng, hoặc xem đấy là một cơ hội tuyệt vời để chúng ta trả nghiệp, để không còn bị chi phối bởi những nghiệp bất thiện nữa, thì chúng ta sẽ nhận ra được rằng, bị bệnh tật thực sự không phải là điều xấu. Chúng ta có thể chịu đựng được cơn bệnh khi chúng ta nghĩ rằng, nếu không may những nghiệp bất thiện của mình chín muồi và biểu hiện ra dưới những hình thức khác, khiến cho chúng ta vô cùng đau khổ thì lúc đó chúng ta sẽ thê thảm hơn nhiều. Và chúng ta có thể nghĩ rằng, mình thật may mắn khi nghiệp bất thiện đã chín muồi trong hiện tại, nhờ đấy mà nó sẽ không còn che khuất tâm trí của ta nữa, không làm khổ ta nữa. Đây là một phương thức mà chúng ta có thể vận dụng khi bị bệnh.
Có một cô gái trẻ, khoảng chừng hơn 30 tuổi. Cô cảm thấy không được khỏe trong một thời gian dài và đã đi khám bác sĩ. Bác sĩ đã chẩn đoán bệnh tình của cô và nói với cô: “Tình trạng sức khỏe của cô không được khả quan lắm. Cô đã bị bệnh trong một thời gian dài và căn bệnh này có thể khiến cô phải tử vong”.
Tất nhiên, phản ứng tức thời của cô gái là buồn bã, sợ hãi và tiếc cho bản thân mình. Một lần nọ, cô dừng sự lo nghĩ và tự hỏi: “Vâng, nếu Đức Dalai Lama rơi vào tình cảnh như mình thì ngài sẽ cảm thấy thế nào? Ngài đối phó với tình trạng này như thế nào?”. Cô nghĩ về điều đó và câu trả lời đã đến với cô, rằng ngài sẽ nói: “Hãy tử tế”.
Thế là cô đã lấy đó làm phương châm của mình, “hãy tử tế”. Và cô nghĩ rằng: “Được rồi, mình sẽ nhập viện một thời gian. Mình sẽ gặp rất nhiều hạng người - các y tá, kỹ thuật viên, chuyên gia trị liệu, bác sĩ, người lao công, các bệnh nhân khác, người thân trong gia đình và những người khác. Mình sẽ tiếp xúc với rất nhiều người và mình chỉ cần tử tế với họ”. Cô đã chuẩn bị sẵn tâm thế cho mình, rằng việc cô sẽ làm là đối xử tử tế với bất kỳ ai mà cô gặp phải.
Cô kể lại rằng, cô đã từng nghĩ như thế và nhờ đó mà cô cảm thấy bình an hơn. Đó là vì cô đã chấp nhận sự thật là cô bị bệnh và cô đã có một phương thức hành động, đó là “hãy tử tế”. Cô nhận ra rằng, ngay cả khi cô bị bệnh, cô vẫn có thể làm cho cuộc sống của mình có ý nghĩa. Cô vẫn có thể đem đến một thứ gì đó cho người khác để cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.
Sau đó, bác sĩ đã tiến hành thêm một số xét nghiệm và nói với cô là ông ta đã chẩn đoán sai, rằng cô không có bị căn bệnh nặng như vậy. Tất nhiên là cô ấy khá nhẹ nhõm khi nghe điều đó, nhưng cô nói, đấy là một bài học kinh nghiệm rất quý giá mà cô đã trải nghiệm.
Tôi cũng nhớ khi tôi sống ở Singapore vào năm 1987 và 1988, có một người đàn ông trẻ đã chết vì bệnh ung thư. Một hôm, tôi đến thăm anh và anh ta nói: “Tôi chỉ là một người vô dụng. Thậm chí tôi không thể rời khỏi căn hộ của mình”. Lúc ấy chúng tôi đứng gần cửa sổ, và tôi nói: “Anh hãy nhìn ra ngoài cửa sổ. Tất cả mọi người đang chạy ngược chạy xuôi, anh có nghĩ rằng cuộc sống của họ là đáng giá? Họ có thể bận rộn với rất nhiều thứ nhưng không có nghĩa là cuộc sống của họ là đáng giá”.
Tôi đã giải thích với anh ta rằng, sống một cuộc sống đáng giá không có nghĩa là người bận rộn nhất trong những người bận rộn. Sống một cuộc sống đáng giá phụ thuộc vào những gì chúng ta làm với tâm của chúng ta. Ngay cả khi cơ thể của chúng ta bất lực, nếu chúng ta sử dụng trái tim và tâm trí của mình để thực hành giáo pháp thì cuộc sống của chúng ta cũng trở nên rất có ích. Chúng ta không cần phải khỏe mạnh để thực hành giáo pháp.
Có thể khi ta khỏe mạnh thì việc thực hành giáo pháp sẽ dễ dàng hơn, nhưng nếu đang bị bệnh, chúng ta có thể sử dụng thời gian và năng lượng mà chúng ta có để thực hành. Thậm chí, nếu chúng ta không thể ngồi thẳng, hoặc đang nằm trên giường, hoặc bị ngủ nhiều, hoặc bất cứ điều gì, chúng ta vẫn có thể nghĩ đến những ý niệm lành. Chúng ta vẫn có thể quán xét bản chất của thực tại. Chúng ta vẫn có thể suy nghiệm về nghiệp. Chúng ta vẫn có thể quy y Phật, Pháp và Tăng. Vẫn có rất nhiều thứ chúng ta có thể làm ngay cả khi đang bị bệnh. Và điều đó khiến cho cuộc sống của chúng ta rất có ý nghĩa.
Đừng nghĩ rằng cuộc sống của ta có ý nghĩa chỉ vì ta đang chạy lăng xăng để làm việc này việc kia. Đừng lấy đó làm tiêu chuẩn để đánh giá một cuộc sống hữu ích. Đôi khi, chúng ta có thể có rất nhiều thứ để chứng minh cho những nỗ lực của mình, nhưng trong quá trình thực hiện những điều ấy, chúng ta lại tạo ra cả tấn nghiệp xấu. Và nghiệp xấu ấy không phải là một sản phẩm hữu ích trong cuộc sống của chúng ta.
Ngược lại, chúng ta có thể bị bệnh và nằm trên giường, nhưng nếu chúng ta sử dụng tâm trí của mình để tạo ra rất nhiều nghiệp thiện, thiện nghiệp ấy sẽ trở thành nghiệp nhân cho sự tái sinh tốt lành và đưa chúng ta đến gần sự giải thoát và giác ngộ hơn.
Đừng đánh giá thấp sức mạnh tâm thức của chúng ta. Tâm của ta thực sự rất mạnh mẽ. Ngay cả khi ta đang bị bệnh, chỉ cần sức mạnh của những ý tưởng tích cực mà chúng ta tạo ra cũng có thể ảnh hưởng phần nào đến những người xung quanh. 


Ni sư Thubten Chodron

Chuyển ngữ: Minh Nguyên
Nguồn: Nguyệt san Giác ngộ

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

10 sự thật "thú vị lẫn kinh hoàng" về cơ thể con người

Cơ thể con người là một cỗ máy kỳ diệu. Các cơ quan hoạt động một cách nhịp nhàng và chính xác. Khám phá 10 điều về cơ thể sau đây là điều thú vị.

1. Làn da có đến bốn màu sắc

Vốn dĩ, da con người đều có màu trắng kem. Để “tạo nên” các màu sắc khác nhau, sắc tố da sẽ "bổ sung" một chút màu vàng, màu đỏ hồng, được tạo thành bởi những mạch máu dưới làn da. Thêm vào đó, các sắc tố melanin, được tổng hợp khi da tiếp xúc tia cực tím có trong ánh nắng, góp cho da sắc đen. Mật độ melanin phụ thuộc vào chủng tộc cũng như điều kiện nơi ta sống. Tất cả các màu sắc này hòa trộn và tạo nên màu da của mỗi người.


Màu da chúng ta được tạo thành từ nhiều yếu tố khác nhau


2. Ngôn ngữ đặc biệt

Cười, khóc, hắt xì hay thậm chí là ngáp… là những tín hiệu giao tiếp đặc biệt của con người. Ví dụ, mỗi khi nghe thấy tiếng cười, ta thường có xu hướng cảm thấy vui vẻ và cũng muốn nở nụ cười. Vì tiếng cười là một tín hiệu tác động vào vùng não kiểm soát nét mặt của chúng ta. Điều này tương tự với việc khóc, ngáp, hắt xì...



Tiếng cười là một công cụ giao tiếp đặc biệt.


3. Khi tiến hóa sơ suất

Bên cạnh ruột thừa, răng khôn cũng là bộ phận thừa mà quá trình tiến hóa chưa kịp đào thải “hộ” con người. Cách đây hàng triệu năm, răng khôn đã giúp tổ tiên chúng ta nhai thịt tốt hơn. Nhưng khi bộ não phát triển, xương hàm bị thu hẹp lại khiến răng khôn không có chỗ mọc. Thế là chúng phải chen chúc và mọc theo những hướng khác nhau, gây ra nhiều đau đớn và phiền phức.



Răng khôn mọc lệch gây ra những cơn đau khó chịu.

4. Những sợi lông vận chuyển

Các xoang hô hấp của chúng ta có rất nhiều những sợi lông li ti. Chúng liên tục rung động và đẩy chất nhờn từ khoang mũi xuống cổ họng nhằm giữ vệ sinh cho cơ thể. Vì thế, lợi ích của các lông ở hệ hô hấp không phải là che chắn, bảo vệ giống như "nhiệm vụ" của tóc, lông tay, lông chân... mà là vận chuyển giúp ích cho cơ thể.


Khi trời lạnh, hoạt động của các lông rung này kém hiệu quả đi. Hậu quả là các chất nhờn bị tích tụ trong khoang mũi và cơ thể buộc phải hắt hơi để thải chúng ra ngoài.

5. Nỗi buồn của tuổi dậy thì

Tuổi dậy thì thường kéo theo những phiền toái không chỉ về thể chất mà cả tâm lý. Ở giai đoạn này, teen thường cảm thấy mất tập trung, chán nản, dễ vui, dễ buồn vô cớ. Lý giải về điều này, các nhà khoa học cho biết hormone trong cơ thể chúng ta hoạt động đặc biệt mạnh mẽ trong tuổi dậy thì và nó đã tác động đến các nơron thần kinh trong não đấy!


Hormone gây ra những biến đổi tâm lý ở tuổi dậy thì.

6. Tế bào trứng dùng không hết

Buồng trứng của các teen girl trung bình có khoảng 34.000 tế bào trứng nhưng trong suốt cuộc đời thì chỉ có khoảng 350 trứng trưởng thành và rụng mà thôi, số còn lại đều tự tiêu hủy. Đến độ tuổi 40 - 50, chu kỳ kinh nguyệt sẽ dừng lại, có nghĩa bộ não không còn điều khiển việc rụng trứng nữa.


Chỉ khoảng 1% trứng rụng trong suốt cuộc đời người phụ nữ.


7. Bộ não… ăn nhiều


Tuy chỉ chiếm 2% khối lượng cơ thể nhưng não bộ của chúng ta “tiêu hóa” đến 20% tổng khối lượng ôxy và calo hấp thu được. Ba động mạch não có nhiệm vụ thường xuyên bơm ôxy và chất dinh dưỡng nuôi não. Nếu hoạt động này bị dừng lại vì bất cứ lý do gì, vùng não bị “đói” có thể bị chết, dẫn đến những tổn thương không thể phục hồi.


Bộ não tiêu thụ 1/5 năng lượng của bạn.

8. Xương giúp điều hòa muối khoáng

Thực tế, rất ít người biết ngoài nhiệm vụ làm giá đỡ cơ thể, xương còn nhận trách nhiệm điều hòa canxi trong cơ thể.
Xương được cấu tạo bởi hai thành phần hóa học chính là phốt pho và canxi. Tuy nhiên, không dừng lại tại đó, canxi còn tham gia cấu tạo cơ và nơron thần kinh. Khi cơ thể bị thiếu canxi trầm trọng, canxi trong xương sẽ được phân giải một phần để san sẻ cho các bộ phận khác. Lúc đó, xương sẽ yếu đi. Đây là khoảng thời gian chúng ta rất dễ gặp chấn thương nếu không cẩn thận. Vì vậy, các bạn nhớ ăn uống đầy đủ để xương không phải “ôm đồm” quá nhiều nhiệm vụ nhé!


Những thực phẩm giàu canxi.

9. Khả năng nhớ bằng tư thế

Gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện mối liên hệ giữa trí nhớ và tư thế của cơ thể. Họ chỉ ra rằng, ký ức con người luôn có mối liên hệ chặt chẽ với cảm nhận của các giác quan trong cùng thời điểm. Chẳng hạn, nếu một người đàn ông quỳ một chân xuống, anh ta sẽ nhớ được nhiều chi tiết hơn về lễ cầu hôn của mình.



Tư thế có thể gợi ta nhắc đến một kỷ niệm nào đó.

10. Chất độc trong dạ dày

Axit clohiđric (ký hiệu hóa học: HCl) là một axit mạnh, có khả năng ăn mòn nhiều kim loại, bao gồm cả sắt, thép. Thật khó có thể tưởng tượng rằng HCl luôn tồn tại trong dạ dày chúng ta, tham gia vào quá trình tiêu hóa. Nhưng bạn đừng lo, cơ thể chúng ta luôn có một lớp màng nhầy ngăn cách axit với thành dạ dày, đảm bảo mọi hoạt động diễn ra bình thường.



Axit clohidric là một phần của dịch vị dạ dày.


Sưu tầm

NHÂN DUYÊN ĐẸP, XẤU, GIÀU, NGHÈO, SANG, HÈN CỦA NỮ NHÂN

Chuyện cô nữ tu ngoại đạo Sundarī và kỹ nữ Ciñcā-māṇavikā có sắc đẹp tuyệt trần nhưng lại mang thân phận thấp hèn, hạ liệt; và cả hai đều bị chết thảm, người thì bị giết rồi cái thây bị chôn trong đống rác, người thì bị đất rút với quả báo địa ngục; hai sự kiện ấy đã dấy sinh trong lòng hoàng hậu Mallikā không biết bao nhiêu là câu hỏi, về nhân quả đời này, đời kia cũng như sự “bí mật” của nghiệp!
Hôm kia, bà cùng với chừng một trăm thị nữ mang theo lễ phẩm đến Kỳ Viên cúng dường đức Phật và Tăng chúng; sau đó, bà xin được đảnh lễ, hầu Phật rồi thưa rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay cho đệ tử được hỏi về những điểm giống nhau, khác nhau, liên hệ đến sự đẹp, xấu, giàu, nghèo, sang, hèn của tất thảy nữ nhân trên đời này?


- Cứ hỏi đi, này Mallikā! Đức Phật đáp - Có phải hoàng hậu muốn hỏi về nhân, về quả, về duyên, về báo; mà từ đó, phát sanh những dị, đồng sai khác như trên của nghiệp?

- Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn!

Rồi những câu hỏi của hoàng hậu Mallikā được đúc kết, tóm tắt lại như sau:

1 - Thứ nhất là do nhân gì, do duyên gì mà trên thế gian này có một số phụ nữ hình dong xấu xí, ngũ quan xiêng lệch, da dẻ sần sùi, khô cằn; tỏa mùi hôi khó chịu, lại còn sống đời nghèo nàn, đói khổ trong thân phận tôi đòi, thấp hèn, hạ liệt làm cho ai cũng muốn tránh xa, không muốn gần gũi?

2- Thứ hai, do nhân gì, do duyên gì mà có hạng phụ nữ tuy xấu xí như trên nhưng lại sống đời phú quý, có danh vọng, có địa vị cao sang, lộc tài phú túc, cháu con cùng kẻ hầu người hạ đông vui, thịnh mãn?

3- Thứ ba, do nhân gì, duyên gì mà có hạng phụ nữ có ngũ quan cân đối thẩm mỹ, duyên dáng; nhan sắc vô cùng xinh đẹp, da dẻ trắng ngà lại tỏa mùi thơm, đi đến đâu ai cũng trầm trồ, tán thán, chiêm ngưỡng; nhưng lại sống đời nghèo khó, thiếu cơm, thiếu áo, chẳng có của cải tài sản gì, chẳng có địa vị, danh tiếng gì trong xã hội?


4- Thứ tư, do nhân gì, do duyên gì mà có số phụ nữ hầu như toàn diện về ngũ quan, dung nghi và sắc đẹp mỹ lệ như trên; lại còn sống đời phú quý vinh hoa, toàn mãn về của cải tài sản, toàn mãn về lộc tài, toàn mãn về địa vị, danh vọng, chồng con, nô bộc, thường được thế gian tôn thờ, trọng vọng và chiêm ngưỡng!

Bạch đức Thế Tôn! Vậy là có bốn hạng phụ nữ như vậy trên đời này, xin đức Đạo sư từ bi vén mở bức màn tối tăm đang che phủ tâm trí của đệ tử, để gỡ rối tất thảy mọi hoài nghi thắc mắc cho đệ tử.

Sau khi nghe xong, đức Đạo sư thuyết giảng rằng:

- Này hoàng hậu Mallikā! Tóm tắt, vậy là có bốn hạng phụ nữ. Hạng thứ nhất, xấu xí, đói nghèo và bất hạnh. Hạng thứ hai, tuy xấu xí nhưng lại phú quý và vinh hoa. Hạng thứ ba, tuy có dung sắc xinh đẹp, mỹ lệ nhưng lại bất hạnh, đói nghèo. Và hạng thứ tư, vừa có dung sắc xinh đẹp, mỹ lệ vừa được sống trong phú quý, vinh hoa! Như Lai tóm tắt như vậy có đúng không, này Mallikā?

- Thưa vâng! Bạch đức Tôn sư!

- Hãy nghe đây, này Mallikā! Hãy nghe và hãy khéo chú tâm, thọ trì, Như Lai sẽ nói đây!

Trên thế gian này có hạng người phụ nữ tính tình nóng nảy, sân nộ bất thường, dễ dàng nổi cơn lôi đình khi có ai xâm phạm đến, dù chỉ là việc nhỏ mọn, vụn vặt. Một chút gì đó đụng đến “cái ta” của họ, họ liền tức khắc biểu hiện sự không hài lòng; thế là cơn nóng giận, sự dữ dằn bộc phát ngay, thường gây thù chuốc oán với người khác. Không những thế, hạng người nữ này không có đức tin với thiện pháp, không hoan hỷ tạo phước điền, không bao giờ bố thí cơm, nước, hoa quả, thuốc men, vật thơm, dầu thoa, nhu cầu phương tiện, vải vóc, y phục, đèn dầu, chỗ ở, chỗ nằm, ngồi... đến chư sa-môn, bà-la-môn hay cho người đói khổ. Ngoài ra, tính tình họ thường hay đố kỵ, ganh tỵ đối với những người có của cải tài sản; đem tâm tỵ hiềm với sự làm phước của người khác; ganh tỵ với những người có nhiều lợi lộc, người được quần chúng cung kính, mến mộ; và họ còn làm nhiều việc sái quấy, xấu ác khác nữa. Số phụ nữ này sau khi thân hoại mạng chung, bị nhiều quả báo đau khổ trong bốn ác đạo, nếu do ảnh hưởng một phước lành nào đó trong quá khứ, được tái sanh trở lại làm người thì sẽ rơi vào trường hợp hạng phụ nữ thứ nhất: Vừa xấu xí, đói nghèo vừa sống đời hạ liệt, bất hạnh - này Mallikā!

- Đệ tử nghe rõ rồi!

- Này Mallikā! Trong thế gian này, hạng phụ nữ có tính tình hung hãn, dữ dằn, dễ dàng nỗi cơn thịnh nộ như trường hợp thứ nhất; nhưng họ lại có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo. Hạng nữ này còn có những đức tính tốt khác nữa, là họ không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi, không tỵ hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường. Ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa. Hạng phụ nữ này, sau khi lâm chung thường được sinh vào những cảnh giới tốt đẹp; tuy nhiên, nếu sanh trở lại làm người thì sẽ rơi vào trường hợp thứ hai: Tuy thân sắc xấu xí nhưng lại được cao sang, phú quý, này Mallikā!

- Đệ tử lãnh hội rồi, bạch đức Tôn sư!

- Trên thế gian này có hạng phụ nữ không có hoặc ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ hòa, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui. Nếu có ai lỡ nói lời khó nghe, đụng chạm, xúc phạm đến họ, họ cũng không bất bình, không giận dữ, không phẫn nộ; chẳng bao giờ hiềm hận ai, chẳng gây thù chuốc oán với ai. Tuy nhiên, họ không có đức tin, không có tâm tạo phước điền, không bố thí vật thực, y phục, chỗ ở đến các hàng sa-môn, bà-la-môn hay những người cơ hàn, đói khổ! Đã thế, họ lại có tâm đố kỵ với người nhiều lợi lộc; ganh tỵ với những người được sự tán dương khen ngợi, được sự thương yêu, quý mến, cung kính cúng dường của người khác; đồng thời họ còn có những hành động sai quấy, xấu ác khác nữa. Hạng phụ nữ này sau khi chết, nếu như tái sanh trở lại làm người thì họ rơi vào trường hợp thứ ba: Có dung nhan vô cùng xinh đẹp nhưng lại sống đời tối tăm, đói nghèo, bất hạnh, này Mallikā!

- Đệ tử biết nhân, biết quả rồi, bạch đức Đạo sư!

- Trên thế gian này, có số phụ nữ không có hoặc ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ ái, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui như hạng người thứ ba ở trên; họ còn có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo. Hạng phụ này lại còn có những đức tính tốt khác nữa, là họ không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi; không tỵ hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường. Ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa. Hạng phụ nữ này sau khi lâm chung thường sanh vào những cảnh giới tốt đẹp; nếu sanh trở lại làm người thì họ rơi vào trường hợp thứ tư: Có dung sắc vô cùng mỹ lệ mà phước báu về tài sản, danh vọng, địa vị, chồng con, nô bộc thảy đều toàn mãn; được mọi người cung kính, quý trọng, này Mallikā!

Sau khi giảng giải, phân tích rõ nhân quả của bốn hạng phụ nữ trên đời, đức Thế Tôn kết luận như sau:

1- Do tính tình nóng nảy hay giận dữ, nhiều sân hận, dễ chuốc oán, sinh thù, mặt mày luôn cau có, bẳn gắt: Chính chúng là nhân, là duyên, tạo nên hạnh nghiệp, sinh ra quả báo có khuôn mặt xấu xí, ngũ quan xiêng lệch, da dẻ sần sùi, tỏa mùi hôi khó chịu, khó nhìn, khó ưa, này Mallikā!

2- Do không có đức tin, không có giữ giới, không biết bố thí: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo có đời sống cơ cực, đói khổ, thiếu cơm, rách áo, này Mallikā!

3- Do có tâm đố kỵ, ganh ghét, tỵ hiềm đối với những người có địa vị, danh vọng, tài sản: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo thấp hèn trong thân phận nô bộc, thị tỳ, nô lệ, dâm nữ... là thang bậc hạ liệt nhất trong xã hội, này Mallikā!

4- Do ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ hòa, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệpđưa đến quả báo có sắc thân xinh đẹp, da dẻ mịn màng, tỏa mùi thơm, ngũ quan cân đối, tuyệt mỹ như là hiện thân tiên nữ trên đời này vậy, này Mallikā!

5- Do có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp tốt lành cho quả báo giàu sang, phú túc, thịnh mãn lộc tài, này Mallikā!

6- Do không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi; không tỵ hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường; ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo cao sang, đạt địa vị, danh vọng tối thắng mà thế gian ai cũng kính trọng, tôn quý!
Đấy chính là sáu nhân, sáu duyên, sáu hành nghiệp đưa đến sáu quả báo, sáu hoàn cảnh với ngũ quan, dung sắc, tài lộc, địa vị, danh vọng khác nhau, này Mallikā!
Sau khi lắng nghe đức Phật thuyết giảng xong, bà chánh hậu bèn cung kính thưa rằng:

- Theo như sự phân tích, giảng giải cặn kẽ, chu đáo, hoàn hảo vừa rồi của đức Thế Tôn, đệ tử đã nắm rõ, đã biết chắc, đã tường minh ba nhân quả xấu nên loại trừ, ba nhân quả tốt nên hành theo. Vậy để lợi lạc, tấn hóa lâu dài cho đệ tử về sau, đệ tử xin phát nguyện dưới chân đức Thế Tôn rằng:

“- Từ rày về sau, đệ tử nguyện chừa bỏ tính tình nóng nảy, hay giận dữ, nhiều sân hận, dễ chuốc oán, sinh thù, mặt mày luôn cau có, bẳn gắt; phải lập tâm tu tập ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ hòa, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui để có được sắc đẹp mỹ toàn hơn kiếp này nữa!
Từ rày về sau, đệ tử nguyện chừa bỏ tâm bủn xỉn, keo kiệt, rít róng; sống đời đầy đủ đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la- môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo để hưởng được giàu sang, mỹ toàn về của cải, tài sản hơn cả kiếp này nữa!
Từ rày về sau, đệ tử nguyện không đố kỵ với người nhiều lợi lộc; không ganh ghét, tỵ hiềm đối với những người được sự tán dương khen ngợi; còn hơn thế nữa, đệ tử sẽ kính trọng họ, hoan hỷ với họ để mai sau đệ tử sẽ được danh vọng và địa vị sang cả trong các cảnh giới hơn thế này nữa!
Kính bạch đức Thế Tôn! Trong quốc độ này tất cả những phụ nữ thuộc nhiều dòng tộc khác nhau, như bà-la-môn, hoàng tộc, chiến sĩ, thương gia thì đệ tử là người có địa vị cao quý đặc biệt hơn tất cả những người phụ nữ ấy. Những người phụ nữ ấy đều dưới quyền cai quản của đệ tử, do nhân thế nào, duyên như thế nào, đệ tử không còn một mảy may nghi ngờ gì nữa! Ngay chính trường hợp của hai cô gái có sắc đẹp tuyệt trần, đều có cái chết thảm, thân cận với nhóm tu sĩ hạ liệt, thân phận thấp hèn, đệ tử cũng hiểu nhân và duyên của họ rồi!
Kính bạch đức Thế Tôn! Đệ tử vô cùng hoan hỷ bởi lời dạy cao quý, quá sức rõ ràng của ngài! Kính xin đức Đạo sư chứng minh cho đệ tử một lần nữa, là một người cận sự nữ có đức tin trong sạch, thường xuyên hộ độ Tăng-già từ nay cho đến trọn đời”.
Bài pháp này, do thích hợp cho phần đông đang mong cầu tạo phước hữu vi nên chư vị trưởng lão thường thay nhau thuyết giảng nhiều nơi; và lúc nào cũng cuốn hút hai hàng cư sĩ áo trắng, nhất là nữ giới.

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

Lời hay ý ...Ngộ



1. Người đẹp thì làm ta chú ý, còn người làm dáng thì… chú ý đến ta.

2. Vợ ngày xưa thường “nâng khăn sửa túi” cho chồng. Vợ ngày nay thường “ngửi khăn lục túi” của chồng.

3. “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” nhưng nếu bạn cười với một cô gái trước mặt vợ mình thì nụ cười ấy lại là thuốc… đỏ.

4. Người cho ta tiền là thầy ta, người cho ta mượn tiền là bạn bè ta, người lúc nào cũng muốn lấy tiền của ta ấy là vợ ta!

5. Có tiền mua tiên cũng được, nhưng đừng mua một “tiên nữ”, vì như thế bạn sẽ không còn tiền.

6. Theo luật Hôn nhân gia đình thì đàn ông (con trai) ít ra cũng được tự do 20 năm (trước khi cưới vợ).

7. Nhậu nhiều thì vợ buồn, nhậu ít thì bạn bè buồn, còn không nhậu thì… mình buồn.

8. Hôn nhân là nghệ thuật sống chung hai người mà vẫn hạnh phúc như khi sống một mình.

9. Người ta thường dùng lửa để thử vàng, dùng vàng thử đàn bà, dùng đàn bà thử đàn ông và dùng đàn ông đi lấy lửa.

10. Người đàn ông đầu tiên so sánh phụ nữ với một đóa hồng là một thi sĩ, còn người thứ hai so sánh như thế là một người thiếu… kinh nghiệm.

11. Được tăng lương cũng giống như uống ly rượu, nó nâng tinh thần ta lên nhưng chỉ trong chốc lát thôi.

12. Nếp nhăn… là cái mà chỉ người khác có. Còn bạn chỉ có những “đường cá tính” mà thôi.

13. Lương tâm – đó là cái buộc ta phải kể với vợ tất cả mọi chuyện trước khi có ai đó mách.

14. Hãy luôn nhớ rằng bạn là người độc đáo, cũng như… những người khác.

15. Thời trang phụ nữ giống như hàng rào kẽm gai – bảo vệ dinh cơ nhưng không giới hạn tầm nhìn.

16. Nếu người chồng im lặng trong gia đình, nghĩa là vợ anh ta có tài năng của một nhạc trưởng.

17. Hôn nhân cũng giống như số "pi" trong toán học: tự nhiên, phi lý và rất quan trọng.

18. Nếu một phụ nữ không chịu lấy chồng, người ta bảo cô ta có tính độc lập cao. Còn nếu một người đàn ông không chịu lấy vợ, người ta bảo hắn ta không dám dấn thân.

19. Phụ nữ luôn sẵn sàng tha thứ. Nhưng họ không bao giờ quên những gì họ đã tha thứ.

20. Trong 24 tháng đầu tiên của cuộc đời một đứa trẻ, người ta dạy chúng đi và nói. 24 tháng tiếp theo, họ sẽ bảo chúng ngồi yên và câm miệng.

21. Phụ nữ và các nhà dự báo thời tiết giống nhau ở chỗ họ thường chỉ thừa nhận mình đã lầm chứ không sai!

22. Cô gái già là phụ nữ không thành công trong việc kiếm chồng, còn trai già là đàn ông thành công trong việc không lấy vợ.

23. Ba giai đọan của một đời người: tin vào ông già Noel, không tin vào ông già Noel và làm ông già Noel.

24. Đàn ông tốt có ở khắp mọi nơi trên thế giới, trừ dưới mái nhà của vợ mình.

25. Đàn ông tha thứ rồi quên đi, còn đàn bà thì chỉ tha thứ.

26. Tất cả đàn ông đều có lúc lầm lỗi, nhưng người đã có vợ bao giờ cũng nhận ra sai lầm của mình nhanh hơn.

ST

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014

Làm sao tránh bệnh lẫn Alzheimer's

Gần phân nửa số người Mỹ 85 tuổi mắc bệnh Alzheimer's, một chữ mà người Việt ở Mỹ đã quen thuộc và thường dịch là bệnh lẫn. Một số người còn mắc bệnh này khi chưa đến 65 tuổi, được gọi là bệnh lẫn sớm. Căn bệnh quái ác này thường lởn vởn trong óc tất cả chúng ta và nhiều người thường tự hỏi “Có phải mình đang mắc chứng Alzheimer's sớm?”
Thực ra thì bệnh hay quên thường được gặp ở mọi lứa tuổi: không thể tìm thấy chìa khóa, quên tên người đối diện hay người trong một câu chuyện đang kể, hoặc bước vào một căn phòng rồi không thể nhớ tại sao lại vào đó. Đối với đa số thì vấn đề chỉ là do thiếu ngủ hoặc căng thẳng tạm thời. Nhưng đôi khi những triệu chứng này trở nên thường xuyên hơn và đáng lo ngại hơn khiến chúng ta cần đến gặp bác sĩ để được chẩn bệnh chính xác. Rất may là nghiên cứu gần đây cho thấy nhiều loại thực phẩm có thể giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer và thậm chí có thể đảo ngược các vấn đề của trí nhớ khi chúng được phát hiện sớm.
Khi xem xét óc của những người bệnh Alzheimer's, các nhà khoa học thấy giữa các tế bào não là mảng nhỏ li ti, được gọi là mảng beta- amyloid. Dưới kính hiển vi, những mảng này trông giống như viên thịt hoặc cuộn len. Họ cho rằng những mảng này đã dần dần phá hủy các tế bào óc.
Tại sao có những mảng này? Các nhà nghiên cứu ở Mỹ và châu Âu cho rằng câu trả lời tìm thấy trong thói quen ăn uống của chúng ta. Một số thức ăn làm dễ bị bệnh Alzheimer's và ngược lại, một số khác giúp ngăn chặn bệnh
"Chất béo xấu"
Chất béo bão hòa thuộc loại chất béo không lành mạnh: đây là chất béo trong thịt và đặc biệt là trong các sản phẩm sữa, chẳng hạn như phô mai và kem. Các nhà nghiên cứu trong Chicago Health and Aging Project thấy rằng những người ăn nhiều những “chất béo xấu“ờ có hơn ba lần nguy cơ mắc bệnh Alzheimer's so với những người tránh ăn những chất béo này. Và đây là điều đáng sợ: Nếu bạn ăn hai quả trứng và một miếng bacon (thịt ba chỉ ướp mặn) cho bữa ăn sáng, một miếng ức gà không da với một ly sữa cho bữa ăn trưa, và một bánh pizza pho mát nhỏ cho bữa ăn tối, bạn đã lấy đủ “chất béo xấu” để được xếp vào nhóm có nguy cơ cao. Đúng vậy. Những thức ăn hàng ngày mà chúng ta quen ăn khiến chúng ta bị xếp vào nhóm có nguy cơ bị bệnh. Chất transfat có trong bánh donut và các món ăn vặt khác cũng làm tăng nguy cơ bị các vấn đề của trí nhớ sau này.
Sắt , đồng và các kim loại khác Kim loại - sắt và đồng - từ các loại thực phẩm và từ nồi chảo có thể là một phần của vấn đề. Chúng ta đều cần sắt cho hồng huyết cầu và đồng cho các phân hóa tố (enzyme), nhưng với số lượng lớn, các kim loại này sản xuất các gốc hóa học làm tổn thương các tế bào não. Các kim loại này đến từ đâu? Chất sắt có trong các loại thịt và tất nhiên là trong chảo gang, do đó nên dùng nồi chảo làm bằng thép không rỉ (stainless steel), an toàn hơn. Chất đồng được tìm thấy trong ống nước - vì vậy ta nên dùng máy lọc nước - cũng như trong gan và nhiều loại thực phẩm khác. Cả chất sắt và chất đồng thường được thêm vào các loại vitamin, vì vậy nên đọc kỹ nhãn hiệu vitamin bạn mua và chọn những loại thuốc không có các kim loại này .
Chất nhôm cũng đã được tìm thấy trong óc của bệnh nhân Alzheimer's. Trong khi các nhà khoa học tiếp tục tranh luận xem các kim loại này là thủ phạm hay chỉ là một chất có mặt vô tội vạ, tốt hơn hết là ta đừng đem chúng vào người. Không nên dùng nồi nấu bằng nhôm và đọc nhãn hiệu kỹ khi mua baking powder, thuốc antacid, và thực phẩm chế biến sẵn để chọn loại không có các chất này.
Thực phẩm bảo vệ khỏi bệnh Alzheimer's
Không phải tất cả các thực phẩm đều có hại. Một số thực phẩm thực sự bảo vệ óc. Chúng là:
-Các loại hạt chứa nhiều vitamin E, đã được chứng minh là giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer's. Đặc biệt tốt là hạnh nhân (almonds), quả óc chó (walnuts), quả phỉ (hazelnuts), hạt thông (pinenuts), quả hồ đào (pecans), quả hồ trăn (pistachios), hạt hướng dương (sunflower seeds), hạt vừng (sesame seeds), và hạt lanh (flaxseed). Chỉ cần một ounce (một nắm) mỗi ngày là đủ.
-Quả việt quất (blueberries) và nho có được màu đậm là từ anthocyanins, chất chống oxy hóa mạnh mẽ giúp học tập tốt và tăng trí nhớ trong các nghiên cứu tại Đại học Cincinnati.
-Khoai lang là thức ăn chính của người Okinawa, giống người sống lâu nhất trên trái đất. Họ cũng được biết là có thể duy trì tinh thần minh mẫn vào tuổi già. Khoai lang chứa nhiều beta- carotene, một chất chống oxy hóa mạnh mẽ .
-Các loại rau lá xanh cung cấp sắt trong một hình thức dễ hấp thụ hơn khi cơ thể cần nhiều và ít được hấp thụ khi cơ thể bạn đã có dư, bảo vệ bạn khỏi tình trạng quá dư chất sắt, có thể gây hại cho não. Rau xanh cũng có rất nhiều chất folate, một loại vitamin B bảo vệ óc.
-Các loại đậu và chickpeas có vitamin B6 và folate cũng như protein và cancium, không có chất béo bão hòa hoặc transfat.
-Vitamin B12 rất cần thiết để giúp hệ thần kinh và các tế bào não khỏe mạnh. Folate , vitamin B6 và vitamin B12 hợp chung sẽ loại bỏ homocysteine, là chất tích tụ trong máu - giống như chất thải nhà máy - và làm hư não.
-Ăn chay, nhất là ăn thuần chay rất tốt. Một nghiên cứu tại đại học Loma Linda cho thấy người ăn chay không chỉ sống lâu hơn những người ăn thịt mà họ giữ được sự minh mẫn lâu dài hơn.
Vận động bộ óc thường xuyên
Dùng những cách sau để vận động bộ óc:
-Làm trái tim đập mạnh hơn: Đi bộ nhanh 40 phút ba lần mỗi tuần mang oxygen lên óc và có thể đảo ngược sự co rút do tuổi cao của óc, theo trường đại học Illinois.
-Vận động trí óc: Những bài tập kích thích não - từ sách, báo hay các bài tập não đã được chứng minh là làm óc mạnh lên.
-Ngủ. Giấc ngủ rất cần thiết để gìn giữ trí nhớ. Nửa đầu của đêm rất quan trọng cho giấc ngủ sóng chậm, khi bộ óc tổng hợp các sự kiện và từ ngữ học được trong ngày. Nửa thứ hai của đêm nhấn mạnh giấc ngủ REM, khi những cảm xúc và kỹ năng thể lý được tổng hợp. Nên đi ngủ vào khoảng 10:00 tối, và ngủ đủ tám tiếng hoặc nhiều giờ như có thể được.
Bảo vệ trí nhớ của bạn
Tránh những "chất béo xấu" trong các loại thịt , các sản phẩm sữa, bánh ngọt ăn vặt, và tận dụng các chất dinh dưỡng tốt trong các loại rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt , và đậu. Vitamin B12 là một chất dinh dưỡng cần thiết. Và đừng quên tập thể dục cho thể xác cũng như tinh thần mỗi ngày.
Đừng chần chờ. Nếp nhăn bắt đầu rất sớm và cuộc sống cũng như tóc bạc và những thay đổi trong bộ óc đã bắt đầu và tiến hành trước khi hầu hết chúng ta nhận ra. Ngay bây giờ là thời gian để tận dụng các loại thực phẩm tốt cho não.

(ST)

Chuyện ở West Point - Học viện Quân sự Hoa kỳ


Ở Mỹ, đi xin việc làm, nếu vào thấy có ứng viên tốt nghiệp trường West Point cùng tham gia thì thôi coi như mình cầm chắc 1 suất rớt. Đi về cho nhanh, khỏi phỏng vấn nữa. Rất đông các CEO của các tập đoàn ở Mỹ tốt nghiệp trường West Point, tỷ lệ CEO trên sinh viên tốt nghiệp ( nhớ là tỷ lệ nhé) cao hơn Harvard, Stanford hay Yale...Ở Mỹ nghe ai nói tao từng học ở West Point, người ta nhìn mình từ trên xuống dưới, như 1 thực thể lạ, một con người hoàn hảo. Không xếp hạng được vì nó không có tiêu chuẩn để xếp.


Vậy West Point là trường gì? Đó chính là học viện quân sự Hoa Kỳ. Điều khá lạ là mặc dù là học viện quân sự, nhưng lại cung cấp các quản trị cao cấp cho nền kinh tế Mỹ và thế giới. Sau 5 năm bắt buộc phải phục vụ trong quân đội, phần lớn các bạn rời bỏ binh nghiệp, học thêm một MBA rồi đi làm cho các tập đoàn. Rồi thăng tiến rất nhanh. Ở West Point, có một slogan là cứ đưa cho tôi một người không phải tâm thần, tôi đều có thể đào tạo thành 1 công dân ưu tú.
Mỗi năm West Point chỉ tuyển khoảng 1300 bạn. Và trong 4 năm học, bắt buộc phải loại thải 10%/năm. Tức năm cuối chỉ còn dưới 1000 bạn ra trường. Chương trình học từ thiên văn vũ trụ đến cách bắt tay, cách uống rượu vẫn tỉnh táo, cách gấp mùng mền chiếu gối đến tranh luận các tác phẩm của Victor Hugo. Trên thông thiên văn, dưới tường địa chất, giữa thấu nhân tâm. Tony quen với anh bạn, tốt nghiệp trường WP và đang làm sếp một công ty đa quốc gia ở Singapore, mỗi lần gặp, ảnh kể về trường WP với một thái độ tự hào, mình nghe mà say mê, chiếc nhẫn biểu tượng của cựu sinh viên WP trên tay anh lấp lánh.
Ảnh kể, sinh viên vừa vào trường đã phải bị khủng bố tinh thần. Quan niệm là trụng nước sôi 100 độ rồi đem qua trụng nước đá. Nên sau này, dù có sự cố gì trong đời, họ cũng cảm thấy bình thường, chẳng xi nhê gì. Đầu tiên là họ nhốt sinh viên từng tốp vào trong phòng, sau đó 2h sau thì thả ra, yêu cầu trả lời các câu hỏi như có bao nhiêu bóng đèn trong phòng, bàn ghế màu gì, lúc vào mấy giờ mấy phút, lúc ra mấy giờ mấy phút, người ngồi bên trái bạn có đeo đồng hồ không, người bên phải tên gì....
Trả lời không được là tự động cuốn gói về nhà. Bài học đầu tiên về ÓC QUAN SÁT, cái quan trọng nhất của một nhà quản trị tài ba. Và bài học tương tự như vậy. Sau này, ảnh đem các bài học này chế biến lại thành tài liệu dạy sinh viên các đại học khác hay nhân viên thực tập cho tập đoàn, cứ 1 đứa "đoạt giải nhất ngáo ngơ toàn quốc" vào mà chịu học, 6 tháng sau thì lột xác thành 1 người mới hoàn toàn, thành Steve Job luôn. Cái Tony xin tài liệu của ảnh, đem về VN dịch, áp dụng cho hãng của mình và đang biên tập lại cho câu lạc bộ con dượng.
Rõ ràng dấu ấn đào tạo rất quan trọng với người trẻ. Nếu chịu khó và có phương pháp đào tạo đúng, ngây ngô ngáo ngơ vẫn trở thành xuất sắc, vì chúng ta giỏi lắm chỉ sử dụng có 1/10 khả năng của bộ não. Giáo dục Mỹ nói chung là kỹ, vì họ đào tạo là cho nước Mỹ có thể sử dụng, không phải chỉ với mục đích xuất khẩu giáo dục như một số nước khác. Nên với sinh viên ngoại quốc, đầu vào cũng rất khó, phải vượt qua các kỳ thi như Toefl, SAT, GMAT, GRE…tuỳ theo cấp và ngành, còn trường nào không kiểm tra đầu vào, thì trường đó hoặc là diploma mill, hoặc không ai biết tới.
Họ cho rằng, việc học viên có được các chứng chỉ này thể hiện sự nghiêm túc trong việc theo đuổi học thuật. Thật ra, các kỳ thi này, so với khả năng của sinh viên VN, thì chẳng là gì, vì để vào đại học VN, kiến thức còn khổng lồ hơn nhiều, khó hơn nhiều. Cũng vì là đào tạo để nước Mỹ có thể sử dụng, nên thời gian cũng lâu hơn, như MBA cũng phải mất 3 năm….so với 12 hay 18 tháng ở một số nước.
Trở lại học viện WP lừng danh bên bờ sông Hudson, cách không xa New York, đây là ước mơ của mọi ông bố khi có đứa con ra đời, và muốn nó ” đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Đào tạo trở thành công dân có ích, giỏi giang, để thoả chí tang bồng hồ thỉ, vùng vẫy giữa đất trời.
Khi 18-30 tuổi, trong lúc đám ngây ngô kia đốt tuổi trẻ trong các quán bar, các quán cà phê, vũ trường, rũ rượi xoã tóc đi ra đi vô vì không biết làm gì, suốt ngày chit chat nhăng cuội, ngủ nhiều hơn học và làm nên đầu óc u u mê mê, nông cạn, cái gì cũng làm biếng, cũng lười…thì các bạn này đã phải vất vả đầu tư trí lực và thể lực. Thư viện West Point mở 24/24, ở đó người ta thấy những cái đầu cắm cúi ghi ghi chép chép, những cuốn sách dày cộm phải đọc xong trong một vài ngày.
Đọc nhanh và rất nhanh, để sau này đi làm, giấy tờ công văn, đọc nhoay nhoáy để phúc đáp, chứ thể loại thấy chữ nhiều đọc nhức mắt, thì thôi khỏi tuyển dụng. Nó đánh vần 1 công văn đọc xong mất hết cả ngày, năng suất lao động sẽ kém. Trí thức là phải đọc nhanh để làm việc giỏi, mà muốn đọc nhanh thì phải tập luyện. Kỹ năng thuyết trình, thuyết pháp sao cho người khác nghe mà rụng rời tay chân nằm trong chương trình học. Những bức tường ở WP luôn đông nghẹt học viên đứng nhìn vào đó, tập nói với bức tường, thu âm, nghe đi nghe lại, nói đi nói lại sao cho hay mới thôi.
Dưới trời tuyết lạnh khủng khiếp, họ phải lăn lê bò trườn để tập thể lực. 5h sáng là kẻng đánh thức dậy, tập thể lực bằng các bài tập với cường độ nặng của vận động viên nhà nghề. Tập bơi, đứng nước 5h, ai đuối quá thì vớt lên, coi như rớt. Rồi tập vượt mọi địa hình. Rèn luyện thể lực sao cho mọi điều kiện thời tiết đều phải thích nghi, nóng 45 độ ở châu Phi hay âm 20 độ ở Alaska đều chịu được. Kỹ năng tồn tại và óc sáng tạo được chú ý đào tạo kỹ.
Những lần trong đêm tối, họ bị thả giữa rừng, và tìm cách về lại trường bằng mọi khả năng có thể, nhìn các vì sao trên trời đoán hướng, tìm thức ăn, dựng lều. Kiến thức lãnh đạo phải có và phải nhớ vanh vách. Và có khi đang ngủ say giấc, 2h sáng bị đánh thức dậy để kiểm tra, với các câu hỏi như 10 vị tướng giỏi nhất mọi thời đại là ai, nếu bạn là Napoleon, bạn sẽ viết lại lịch sử của Waterloo như thế nào….Không trả lời được, phải đứng ngoài hành lang cả đêm để suy nghĩ. Đào tạo để mỗi WPer có được dáng vóc của một người mẫu, sức khoẻ của một vận động viên Olympic, trí tuệ của một học giả, ăn nói như một thuyết gia, cư xử như một chuyên gia tâm lý….
Khi về già, họ thành lập các hội WPer alumni, đi câu cá bên bờ biển Caribe, đi ngắm hoàng hôn ở Bali, thong dong tự tại, phong lưu tuyệt đỉnh, vì ai cũng có một tuổi trẻ học và làm như điên. Còn có những người đàn ông trên đời, về già rồi, mà vẫn cứ vật lộn mưu sinh, xin tiền vợ, xin tiền con cái, thì cũng có thể họ kém may mắn, nhưng cũng có thể họ đã lãng phí tuổi trẻ một cách vô bổ trong các trò trai gái, ăn chơi đàn đúm, xài tiền của cha mẹ, hay đơn giản là lười nhớt thây. Làm biếng thì sau này phải khổ, thế thôi. Trách ai.
Nhìn các học viên WP đánh đàn, nhảy, khiêu vũ, võ thuật, hát, ảo thuật, thám hiểm, vẽ…hay thậm chí tỉ mỉ ngồi cắt tỉa giấy để rèn luyện đôi tay khéo léo, bạn sẽ thấy mình sẽ phải cố gắng thật nhiều. Một ngày chỉ có 24h, là công bằng cho tất cả mọi người. Chúng ta phải ngủ 6-8 tiếng, ai cũng chỉ còn 16h trong ngày.
Nên phải chia ra, làm gì, học gì trong quỹ thời gian ít ỏi đó. Một WPer nếu sáng sớm không nộp được bảng mô tả công việc trong ngày ( daily to-do list) cho bạn trưởng nhóm, thì coi như nắm chắc suất cuốn gói về quê. Không có chuyện ngủ dậy và ngày đó không biết mình phải làm gì.
Sinh viên người Việt ở West Point khá đông, nhưng đều là Việt kiều, nữ nhiều hơn nam. Du học sinh quốc tế ở WP một năm chỉ vài ba chục bạn, vì đầu vào khó quá. Con trai cả của thủ tướng Cambodia Hun Sen cũng tốt nghiệp trường này. Bạn mà nhìn thấy cậu này, không mê thì thôi. Đẹp ngời ngời từ ngoại quan đến nhân cách, mạnh mẽ nam tính và thông tuệ, quý phái từ cốt cách đến tinh thần, một nụ cười cũng chứa sự bao dung như trời đất, thật là không có gì có thể so sánh nổi.
Sự cố tranh chấp đền Preah vihear với Thái Lan, hai bên quyết không bên nào chịu nhường bên nào, thậm chí đã vang lên tiếng súng. Trước tình hình cấp bách đó, anh nhận nhiệm vụ của tổ quốc và lên đường đi đàm phán với người Thái. Và chỉ với ánh mắt ấm áp và vài câu nói sắc sảo theo phong cách West Point, bên Thái Lan phải xin lỗi và rút quân, nhường lại ngôi đền này cho quê hương Cambodia của anh…

Rèn luyện thể lực là một khoa mục rất quan trọng đối với các cadet. Khi đến thăm Học viện, bạn có thể thấy các cadet chạy vòng quanh khuôn viên trường vào bất cứ lúc nào.
Ở trước cổng của học viện là bức tượng của cố Tổng thống George Washington
Ở cách đó một khoảng là tượng của Tổng thống Eisenhower - người đã từng theo học tại Học viện này từ năm 1911 đến 1915.
Hầu hết các lớp học của học viện đều có sĩ số dưới 20 người. Đây là một lớp học về kinh doanh. Kinh doanh là một trong những môn học chính của Học viện. Ngoài ra các học viên còn phải học các môn như Cơ khí, Ngoại ngữ, Khoa học xã hội.
Học viên không được phép đội mũ khi bước vào trong tòa nhà nhưng ngay khi bước ra khỏi tòa nhà họ bắt buộc phải đội mũ bất kể khi nào. Phù hiệu gắn trên áo khoác của các học viên cho biết họ thuộc đơn vị nào còn năm tốt nghiệp sẽ được thêu ở ngay bên dưới. Trong ảnh là chiếc áo của một học viên sẽ tốt nghiệp vào năm 2014.
Tổng số học viên của Học viện là khoảng 4.400 người. Nữ giới chiếm khoảng 15%.

Tân thiếu úy Amanda Nguyễn sau buổi lễ tốt nghiệp tại Học Viện Quân SựWest Point, hôm 28 Tháng 5.

Chiếc nhẫn biểu tượng của sinh viên WP
(ST)


Cha lập quốc gia riêng cho con làm công chúa

Người đàn ông Mỹ mua một khu vực sa mạc ở Bắc Phi và tuyên bố khai sinh "vương quốc" mới để giúp con gái thực hiện ước mơ làm công chúa.

"Công chúa" Emily Heaton đội vương miện do bố mẹ làm và chụp ảnh cùng "quốc kỳ vương quốc Bắc Sudan". Ảnh: AP.
Jeremiah Heaton, bang Virginia, từng có lời hứa biến con gái 7 tuổi thành một công chúa thực sự. Ông tới vùng sa mạc Bir Tawil ở Bắc Phi vào tháng 6, cắm lá cờ do các con thiết kế để khẳng định chủ quyền và biến nơi đây thành một vương quốc thực sự, Telegraph cho hay.
Sau khi trở về nhà, Heaton cùng vợ làm một vương miện cho con gái và đề nghị bạn bè và gia đình gọi cô bé là Công chúa Emily.
Heaton phát hiện Bir Tawil, một trong số ít những khu vực vô chủ còn sót lại trên Trái Đất, trong lúc tìm cách thực hiện lời hứa với con gái. Đây là khu vực rộng hơn 2.000 km2 nằm giữa Ai Cập và Sudan nhưng không thuộc về quốc gia nào cả. Nhiều người đã tuyên bố sở hữu vùng đất này trên mạng Internet nhưng ông tin rằng việc tới Bir Tawil rồi cắm cờ sẽ mang lại lợi thế riêng.
"Nơi đó rất đẹp", ông Heaton nói. "Đó là một sa mạc khô cằn ở đông bắc châu Phi. Những người du mục chỉ đi ngang nơi này, dân số vẫn là con số 0". Ba đứa trẻ nhà Heaton còn quyết định đặt tên vùng đất này là "Vương quôc Bắc Sudan". Công chúa Emily nói cô bé muốn đảm bảo trẻ em sinh sống trong vương quốc có đủ thức ăn.
Bước tiếp theo mà người cha cần thực hiện là xin chính quyền Sudan và Ai Cập công nhận "Vương quốc Bắc Sudan". Tuy nhiên, theo Shelia Carapico, giáo sư khoa học chính trị và nghiên cứu quốc tế thuộc Đại học Richmon, "Bắc Sudan" còn phải được các quốc gia châu Phi khác chấp nhận.
Gia đình Heaton cho biết họ không nản lòng và đã yêu cầu làm con dấu riêng cho "vương quốc". Theo Heaton, mục đích chính của việc này là chứng minh với con gái rằng ông giữ lời hứa. "Tôi nghĩ rằng tình yêu tràn ngập thế giới này. Tôi muốn các con biết rằng tôi sẽ làm mọi thứ vì chúng", ông nói.


Vị trí vùng sa mạc Bir Tawil ở giữa Sudan và Ai Cập. Đồ họa: AP.

Như Tâm

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

Con trai và con rể

Ông Tú có hai người con, một trai một gái. Cô con gái đã có vị hôn phu, là một chàng trai anh tuấn, có sự nghiệp, và lại là con trai của một gia đình gia giáo. Vì thế mà ông Tú rất hài lòng, định tâm năm tới, lúc cô con gái vừa ra trường thì cho làm lễ cưới. Trong suốt thời gian chờ đợi, anh chàng rể tương lai đã chứng tỏ mình là một chàng rể quý. Ngày nào sau giờ đi làm việc về chứ đừng nói là ngày nghỉ, anh đều có mặt ở nhà vợ tương lai. Không phải chỉ đến để hẹn hò chuyện trò với người vị hôn thê, mà anh có mặt trong gia đình nhà vợ như một thành viên thường trực mặc dù chưa cưới hỏi chính thức. Anh giúp ông Tú chỉnh lại những trục trặc của chiếc máy vi tính, trồng thêm vài cây hoa trong vườn, tỉa cành những cây kiểng. Anh cũng giúp bà Tú trong chuyện thiết kế lại căn bếp đã có phần hơi lỗi thời. Anh làm mọi chuyện trong nhà như một người con rể… quý.Ông Tú rất hài lòng, và thường khoe với bạn bè ông may mắn có đứa con gái, chứ nếu chỉ có con trai thì thật là buồn, vì cậu con trai chỉ thua chị nó có một tuổi mà chẳng được việc gì, suốt cả ngày không bao giờ thấy mặt, chẳng biết đi đâu. May là con gái ông đã đem về cho ông một đứa con trai khác. Đôi khi ông lại còn nghĩ giá như thay vì một trai một gái, ông có hai đứa con gái, thì nay ông sẽ có đến bốn đứa con, lại càng may mắn biết bao.
Có điều ông không biết, rằng cậu con trai thường vắng nhà nhưng rất kín miệng của ông cũng đã có một người bạn gái quen nhau từ mấy năm nay rồi. Gia đình cô ta đã chấm cậu ấy như là con rể, và định sẽ qua lại với gia đình ông Tú trước khi kết sui gia. Hóa ra cậu con trai của ông đối với nhà cô bạn gái, chẳng khác gì chàng thanh niên đến làm rể nhà ông, túc trực gần như hàng ngày, giúp đỡ cả gia đình những công việc cần đến một người đàn ông vì nhà đó không có con trai. Ông Tú cũng không hề nghĩ ra, có thể là gia đình của cậu rể quý của ông cũng than phiền với bạn bè là cậu con của họ cả ngày chẳng thấy mặt ở nhà, không giúp đỡ gì bố mẹ mà chỉ lo việc cho nhà người ta mà thôi. Ông Tú cũng không ngộ ra một điều là nhờ hai vợ chồng ông thương yêu con gái, và con cái đối với cha mẹ rất hiếu thảo, không khí gia đình đầm ấm thì thằng con rể tương lai mới thường xuyên lui tới, thân thiết với gia đình, chứ nếu con gái không tỏ lòng yêu thương cha mẹ thì cậu con rể cũng chẳng quan tâm gia đình người yêu đến như thế.
Ở đời có những quy luật rất tự nhiên. Ngày xưa, các ông vua cai trị thần dân, còn các bà hoàng hậu thì lo việc nội cung. Ngày nay có những người đàn bà giỏi hơn cả đàn ông trong rất nhiều lãnh vực, tuy nhiên lúc về đến nhà thì việc nấu ăn, chăm sóc con cái, phần lớn cũng đều là thiên chức của người vợ. Đến thăm một gia đình nào, thấy người chồng thay tã cho con, nấu ăn rửa chén bát, còn… bà vợ ngồi đọc báo… thấy nó làm sao ấy, mặc dù nhiều người đàn ông làm những công việc đó cũng rất giỏi. Người ta thường cười những ông chồng sợ vợ, chứ chẳng bao giờ nghe thiên hạ cười đàn bà sợ chồng. Tuy cái quan niệm: “Đàn ông năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã quá xưa rồi, nhưng thời nay, đàn ông có lăng nhăng chút đỉnh, có bị chê cười thì cũng không bằng người ta coi thường những người đàn bà lang chạ. Tuy nói là nam nữ bình quyền, nhưng cũng có những cái khác nhau giữa nam và nữ. Ngày lễ các bà mẹ, ngày lễ phụ nữ, ai ai cũng nhớ, hoa ngoài chợ lên giá. Ngày lễ các ông cha, chẳng ai nhắc đến nhiều. Người ta thường nói “dâu là con, rể là khách.” Người ta thường đề cập đến vấn đề giữa cô dâu và bà gia, chứ ít nói đến chuyện rể với bà gia hay ông gia. Giỏi việc nhà là cái duyên của người đàn bà. Những người đàn bà làm công quả trong chùa, người ta gọi là dì vãi. Không nghe thấy ai nói đến danh từ “chú vãi”, mặc dù trên thế giới các đầu bếp danh tiếng phần lớn là đàn ông. Người ta thường nói đàn ông ga lăng, có ai nói đàn bà ga lăng đâu. Ngày lễ tình nhân, chỉ có chàng tặng hoa cho nàng, chứ hiếm khi thấy ngược lại. Đàn ông kéo ghế cho đàn bà, ít khi thấy đàn bà làm cái việc đó cho đàn ông. Người ta nói đàn bà rảnh rang ngồi không thường hay “buôn chuyện”, ít khi nghe chê đàn ông “ngồi lê đôi mách”. Dù cho nam nữ bình quyền đến đâu, cũng không thể lẫn lộn vai trò giữa đàn ông và đàn bà được. Dĩ nhiên là không thể nói đến chế độ mẫu hệ hiện vẫn còn tồn tại trên thế giới, nhưng chỉ là một con số không đáng kể. Và ngay cả trong chế độ mẫu hệ, con gái đi hỏi chồng, cưới chồng nhưng trời sinh cũng chỉ đàn bà đẻ con chứ đàn ông thì cũng không thể nào đẻ được.
Đàn ông nói chung ít để ý những chuyện lặt vặt nên thường bị chê… vô tình, nhưng không hẳn là thế. Có vợ rồi mọi chuyện để vợ lo toan, tiền lương đem về hết cho vợ, nên mấy cô em thường cho là một khi lấy vợ, anh trai thường không còn thương mấy cô em gái, và thường xẩy ra những mâu thuẫn giữa em gái và vợ. Thế mới có câu “mụ o nhọn mồm”là vậy. Ngược lại, vì thương vợ, để được lòng vợ thì đâu có muốn mất lòng mấy cô em vợ, nên anh rể luôn luôn được mấy cô em vợ thương yêu. Phần nhiều gia đình nào mọi chuyện linh tinh cũng do người đàn bà lo toan. Gia đình nào may mắn gặp người đàn bà khôn ngoan lanh lợi giỏi giang thì mọi chuyện đều tốt đẹp. Trái lại gặp người đàn bà vụng về thì không những gia đình đã không được hạnh phúc, mà các ông chồng cũng bị mang tiếng lây.
Người ta thường nói “Anh em là ruột là rà, vợ chồng như áo cởi ra là rồi,”nhưng người ta cũng nói lại“Vợ chồng là ruột là rà, anh em có cửa có nhà anh em.” Lấy vợ rồi, cái gì cũng hỏi vợ, bởi vợ là cuộc sống mới của mình, là người duy nhất mình có thể chia sẻ mọi điều riêng tư, nhưng vợ lại không phải là máu mủ, mà chỉ là người dưng. Nhưng tự nghìn xưa, điều đó đã xảy ra như thế.
Chung quy, đàn ông con trai thường bị miệng tiếng khá nhiều chỉ vì luôn luôn bị nghi ngờ lấy vợ là chỉ biết có vợ mà thôi. Nhưng nghĩ cho cùng, đó cũng là một thứ quy luật của xã hội. Đàn ông thường bị mang tiếng là làm rể, theo vợ, nịnh vợ rồi quên hết. Thế thì nếu không có đàn ông hoặc đàn ông không phải như thế thì các bà vợ có bằng lòng không? Người con gái nào sẽ chẳng là vợ, và người con trai nào sẽ chẳng là chồng?
Ông Tú có một trai một gái, chứ nếu ông có hai đứa con trai thì chắc ông bà sẽ thất vọng và trách hai đứa con trai vô vị, chỉ biết phục vụ nhà vợ. Nhưng nếu ông có hai đứa con gái thì ông sẽ càng khen mấy cậu con trai nhà khác thật ngoan, thật tốt. Như hiện tại, ông chê cậu con trai của ông và lại khen cậu con rể tương lai của mình hết lời. Ở đời, chuyện khen chê, chuyện xấu tốt, làm sao nói được, chỉ nhận cho ra được những quy luật tự nhiên trong xã hội thì sẽ thấy lúc nào cũng thân tâm an lạc. •

Hoàng Tá Thích

Theo Tạp chí văn hóa Phật giáo số 166

Bản Đàn Hạnh Phúc

Thần thoại Ấn Độ kể rằng : Thượng Đế tạo ra đàn ông trước, thấy đàn ông bơ vơ lang thang tội nghiệp, bèn lấy vẽ yêu kiều của hoa, màu sắc rực rỡ của cầu vồng, tính mềm mại của gió, cái tinh quái của loài hồ ly, cái bất thường của mưa, và sức nóng của núi lửa mà tạo nên đàn bà. Rồi giao cho đàn ông làm vợ, đàn ông mừng lắm, dẩn đi. Không lâu sau đó, người đàn ông đem trả lại cho Thượng Đế, vì chịu hết nỗi đàn bà. Ngài thu nhận. Đàn ông bỏ đi, nhưng rồi không chịu được cô đơn, quay về xin lại. Thương đế đem đàn bà giao lại cho đàn ông. Nhưng rồi sau đó, đàn ông cũng đem trả lại lần nữa. Cứ xin và trả mãi. Đến lần thứ tư, thì Thương Đế bảo: “Lần nầy là lần chót nhé, đừng làm ta phiền nữa.
Đem đi, may nhờ rũi chịu, rán mà chịu đựng nhau.” Câu chuyện có vẽ kỳ thị đàn bà do đàn ông đặt ra. Nhưng đó cũng là một ngụ ngôn, nói lên cái đáng yêu và đáng chán của đàn bà. Đồng thời, cũng nêu lên cái cần thiết và giá trị của gia đình, là sự kết hợp của hai giống đực, cái để tạo nên hạnh phúc cho cuộc sống. Hạnh phúc gia đình là một nguồn vui sướng và giá trị nhất trên đời, mọi thứ hạnh phúc khác đều trở nên phù phiếm, nếu mất hạnh phúc gia đình. Đứng trên khán đài cao nghe thiên hạ vổ tay rào rào chào đón , rồi về nằm queo một mình, đâu có sung sướng bằng vòng tay ấm áp của người thân yêu, nụ hôn thắm thiết của người bạn đời. Thành công về tài chánh, chính trị, văn chương, triết học, đều không có nghĩa lý gì, nếu thiếu hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc gia đình, không là gì cả, nhưng là tất cả. Ý nghĩa của đời sống là gì, nếu không phải là đi tìm hạnh phúc? Tuy hạnh phúc có muôn mặt, muôn khía cạnh, và mỗi người quan niệm hạnh phúc mỗi khác. Cũng có nhiều người đang sống trong hạnh phúc tràn đầy, nhưng họ không biết đó là hạnh phúc. Họ không cảm được là họ đang sung sướng. Chỉ khi họ gặp bất hạnh, đã mất đi cái họ đang có, thì mới biết, mới nghĩ được rằng, trước đây đã có hạnh phúc mà không hề hay biết, để cho nó trôi đi. Cũng như bình thường, ít ai ý thức rằng, được khỏe mạnh, không đau yếu, đã là hạnh phúc rồi. Chỉ cần đau răng nhức nhối thôi, thì cũng đã cảm nhận được điều đó. Chứ khoan nói đến những trọng bệnh, như mù mắt, tê liệt, ung thư… Người bị ung thư hành, thì thấy người đau răng là quá hạnh phúc. Hạnh phúc không phải xa xôi khó tìm, nó thực sự, tràn đầy chung quanh chúng ta, mà chúng ta hoặc vô tình không để ý đến, hoặc vì tham lam, muốn có thứ hạnh phúc mà mình chưa có, chưa đạt. Cho nên, cứ chạy đuổi theo cái bóng hạnh phúc, mà không bao giờ bắt gặp cả. Trong ” Cổ học tinh hoa” kể rằng, có một ông đi trên đường một mình mà cười sằng sặc, sung sướng lắm. Có người hỏi chuyện gì mà cười vui thế?. Ông trả lời rằng, ông đang có ba điều sung sướng, nên vui mà cười. Một là trong sinh vật, có thú, có người, mà ông được làm người, thì là một điều sung sướng. Hai là trong loài người có người tàn tật bệnh hoạn, có người lành lặn, ông được lành lặn, thì là hai điều sướng . Ba là trong những người lành lặn, có kẽ là đàn ông, có kẽ là đàn bà, được làm đàn ông, thì là điều thứ ba sung sướng. Có ba điều sung sướng thì tại sao mà không vui cười cho được. Hồi còn nhỏ, đọc bài nầy, chưa hiểu, tôi tưởng là ông nầy mắc bệnh thần kinh. Chị em bạn gái, có thể cười sung sướng vì có hai điều hạnh phúc vậy.
Gia đình là nơi mà mọi người dể dàng tìm được hạnh phúc nhất . Không có thứ hạnh phúc nào êm ấm, ngọt ngào, dịu dàng bằng hạnh phúc gia đình. Nhưng cũng có nhiều trường hợp, không nơi nào cay đắng, bất hạnh và địa ngục bằng gia đình. Hạnh phúc gia đình như một vườn hoa, phải chăm bón, vun xới, thì hoa mới nở rộ, mới thơm tho, huy hoàng màu sắc. Không vun xới, tưới bón, thì cỏ dại mọc tràn lan, hoa lá tiêu điều. Người ta thường tưởng rằng, hạnh phúc gia đình sẵn có đó, cứ bính thản gặt hái mà không cần chăm sóc, không cần lưu ý đến, để cho nó mọc và nẫy nở phát triển tự nhiên. Nhiều gia đình rất hạnh phúc một cách tự nhiên, vì người vợ, người chồng đã hành xử đúng, đã thấm được cái nếp nhà, khi đang ở với cha mẹ. Cha mẹ họ biết dìn giữ hạnh phúc, và con cái học được và noi theo. Bởi vậy cho nên người xưa chọn dâu, chọn rể, thường chon tông, chọn tổ. Những gia đình nào ít hạnh phúc, thì con cái ít có cơ may học được những điều hay ho tốt lành trong đời sống hôn nhân, ngoại trừ họ tự học, tự tìm hiểu lấy.

Có kẽ bảo rằng, có rất nhiều gia đình sống đã gần hết đời người rồi mà vẫn còn thất học trong vấn đề xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó có lẽ có thật. Cũng có nhiều người biết, nhưng còn mơ hồ, không để hết tâm trí vào việc vun xới hạnh phúc gia đình . Cũng có nhiều người khác, hiểu rất rõ, biết rất nhiều, nhưng không làm, nghĩa là không “tri hành hợp nhất”. Những điều viết sau đây, thì chắc chắc mười người đều biết cả mười, không có chi mới lạ cả. Nhưng không phải vì thế, mà cố tình quên đi, không thèm nhắc nhở.
Sau chừng năm bảy năm vợ chồng chung sống , mọi chuyện hầu như đã cũ lắm rồi. Chưa nói đến năm ba chục năm, thì xem như cũ gần bằng trái đất. Tình cảm lắng đọng, êm đềm, thâm trầm. Vợ chồng thương yêu, chăm sóc nhau như phản ứng tự nhiên, không còn đắn đo, không suy xét. Người cho cũng như người nhận, đều bình thản như hít thở không khí trời. Không ai nghĩ rằng, nếu trong chừng năm ba phút thiếu không khiù để thở, thì có thể bất tỉnh và khó sống nỗi. Thế mà có mấy ai biết mình đang sung sướng, đang có nguồn không khí trong lành để hít thở đâu. Vợ chồng, cho và nhận, đều ít cảm được cái rung động và sung sướng khi được chăm sóc, hy sinh và dâng hiến cho nhau. Cái tình cảm thâm trầm, không nói ra, đôi khi tưởng như lạt lẽo, chán nhàm. Phải đến khi mất nhau, khi đó mới thấm thía, mới tiếc những gì mình không cảm nhận, không làm, khi còn có nhau. Đời sống vợ chồng, có nhiều tháng ngày bên nhau, nhưng đừng bao giờ để cho hạnh phúc, sinh hoạt, và tình yêu trở thành cũ kỹ, lạt lẽo. Chúng ta, chồng cũng như vợ, có bổn phận phải làm cho nó sống động, tươi mát , thắm thiết trở lại. Phải biết đánh bóng cái hạnh phúc mà mỗi gia đình đang có. Phải biết nhắc nhở và cảm nhận được hết tất cả những hạnh phúc nhỏ nhặt nhất từng giây, tùng phút mà mình có được. Một nụ cười của người phối ngẫu, một nụ hôn của con, một đóa hoa nở trong vườn, mình phải biết nắm lấy, cảm nhận, và sung sướng thật sự, và nói lên cái hạnh phúc đơn sơ đó cho mọi người chung quanh cùng vui hưởng.
Có người xem truyền hình đài Nhật bản, họ bảo trằng, biết mình may mắn không là đàn bà Nhật. Thấy mấy ông Nhật trong phim đang âu yếm vợ, đang tỏ tình, mà có cái giọng nạt nộ, gắt gỏng, như sắp thượng cẳng tay, hạ cẳng chân. Thật tội nghiệp cho các bà Nhật , nói thì lý nhí, đi thì như chạy chạy từng bước ngắn. Không biết mấy bà có tủi thân không. Ai mà không ưa dịu dàng, ngọt ngào?. Thế mới biết tại sao người ta thích nghe nhạc. Mặc dù biết lời nhạc là không thực, là tưởng tượng, là bày đặt. Nhưng vẫn cứ muốn nghe đi nghe lại mãi không nhàm, không chán. Phải chăng vì lời ca trong bản nhạc êm ái, dịu dàng, nói lên cái ước mơ của con người, ước mơ được thương yêu, ước mơ được hạnh phúc, được nghe những lời êm tai, thỏa lòng. Không ai không thèm khát được đối xủ tử tế, dịu dàng, ngọt ngào. Ngay cả những người tâm tính khó khăn bất thường nhất. Rất nhiều người tuy biết vậy, thế mà khi mở miệng ra, nói với chồng hoặc vợ, thì lên giọng sai khiến, gắt gỏng, lệnh lạc, như sĩ quan truyền lệnh trên chiến trường. Với thứ ngôn ngữ đó, thì chắc kẽ điên khùng cũng biết là làm cho người nghe khó chịu, và nếu có thi hành, cũng với nỗi bực tức trong lòng, miễn cưởng mà làm cho xong kẻo thêm rắc rối. Nhưng cũng cùng một việc đó, nếu biết nói với lời êm ái ngọt ngào, lịch sự, thì người nghe hăng hái, vui vẻ, sung sướng khi thi hành. Có lần, trước chợ, người thấy một bà hùng hổ, trợn mất, chỉ tay vào chồng gay gắt: ” Đứng ì ra đó sao. Anh phải phụ với tôi chứ, nặng quá mà!”. Anh chồng cúi đầu như con mèo cắt tai, vội vả chạy theo chị vợ vào bên trong chợ. Nếu thời mới yêu nhau, mà chị để lộ cái hùng hổ đó ra, thì chắc anh chồng đã ba chân bốn cẳng mà lánh xa ra. Tại sao chị không thỏ thẻ: ” Anh ơi, nặng quá em khiêng không nỗi, anh có thể giúp em một tay được không?” Thế thì dù có phải gảy xương sống, anh chồng cũng vui vẻ cố làm cho xong. Và trong lòng anh còn vui vẻ hân hoan, vì nghe lời ngọt ngào, dể thương của vợ yêu. Nhiều bà lúc nào cũng sẵn sàng thấm mật ngọt trên môi mà: “Anh ơi, anh à, anh giúp em việc nầy được không? Anh có cho em đi Shopping không? Anh có thích giúp em việc nầy không, anh có vui lòng phụ giúp em … Nếu anh giúp em việc nầy thì em cám ơn anh lắm…” Ngay cả những khi ông chồng bận rộn nhất, cau có nhất, bực mình nhất, mà nghe lời thỏ thẻ, nhẹ nhàng đó, thì anh cũng mau mắn, vui vẻ làm những việc vợ yêu cầu. Đổ nước đường ra, không mất gì cả, thì đàn ông, cũng như đàn bà, ai cũng vui vẻ, hăng hái. Nhiều ông chồng nghe ngọt ngào, thì cười mĩm và nháy mắt, tỏ ra anh biết tỏng là đang được uống nước đường của vợ, nhưng anh vẫn vui vẻ, hăng hái làm. Ngọt ngào với chồng, với vợ, thì hiệu quả hơn trăm lần xẳng giọng. Trong tình vợ chồng, những câu nói ” Em yêu anh. Anh yêu em” nghe rất êm tai, rất thỏa lòng, hả dạ, nghe không bao giờ chán, không bao giờ nhàm. Càng nghe, thì tình yêu càng củng cố trong lòng người nói, và càng thắm thiết trong tâm người nghe. Tình yêu nhờ đó mà tăng trưởng, mà bền vững, mà thêm lòng tin. Lời tha thiết êm ái đó nhập tâm mỗi người. Tin chắc tình yêu mình đang cho và đang nhận vô cùng nồng nàn , ấm cúng. Thử hỏi tại sao tụng kinh, hay đọc kinh, thường phải lặp đi lặp lại một câu kinh, có khi cả chục lần, có khi cả trăm lần. Cũng như những điệp khúc trong các bài ca. Lặp lại, nhưng không bao giờ nhàm, không bao giờ chán. Câu nói xưa cũ, cổ điển , mà thần hiệu đó, nhiều gia đình đã quên đi, không nhắc nhở đến nữa, thật là một thiếu sót, uổng của đời.

Châm ngôn của nhiều bà là đừng bao giờ xẳng giọng, đừng bao giờ nói lời bất nhả, mật thì ngọt và kiến hiệu cay đắng thì làm đau lòng và không ai ưa.
Cứ nhớ lại cái thời vợ chồng mới quen biết nhau, sao mà thơ mộng, sung sướng và đẹp quá chừng. Tưởng không lấy được nhau thì đất trời nầy sụp đổ, cuộc đời không còn nghĩa lý gì nửa. Thời đó, chỉ mới cầm tay nhau thôi, mà trong lòng dạt dào sung sướng, xúc cảm, đến run lên. Và cảm thấy trời đất nở hoa rực rở, và ngàn tiếng du dương vang vọng trong lòng. Hai người cư xử đẹp, tử tế, dịu dàng như trong chuyện thần tiên. Có thế mới bỏ cả cha mẹ, anh em, bạn bè mà theo nhau. Khi đó, họ còn có thể sẳn sàng chết cho nhau mà không chút ân hận. Những vòng tay thời đó, thắm thiết, tràn đầy tình yêu, những câu nói ăm ắp ngôn từ đẹp đẻ, những nhường nhịn, hy sinh không chút đắn đo, không chút thắc mắc. Sau đó, người ta quên đi những nhường nhịn, tử tế lúc ban đầu, để lộ ra cái tranh đua, ganh tị, cáu kỉnh, ích kỷ của mỗi cá nhân, một cách quá sổ sàng, không cần che dấu, không kiêng dè. Những va chạm thường ngày làm sao mà khỏi tổn thương đến cái hạnh phúc gia đình, trong lúc mục tiêu chính của gia đình là tạo dựng hạnh phúc cho chính mình, cho người mình thương, cho con cái, cho tất cả. Đa số, chúng ta có được cái hạnh phúc ban đầu vô cùng phong phú, thế mà rất nhiều gia đình, không biết giữ dìn cho nó lâu bền, tốt đẹp. Mà cứ xói mòn, làm cái vun đầy ban đầu hao hớt, vơi đi, và có khi khô cạn. Thay vào cái hạnh phúc bằng sự nhàm chán, bất hạnh, chịu đựng. Có nhiều gia đình biến thành địa ngục, mà mỗi người thở cái không khí nồng cháy nặng nề của khó khăn, tranh chấp, thù ghét . Không ai mà không mơ ước cuộc sống gia đình được đẹp đẻ, thơ mộng, đáng yêu mãi như thuỡ ban đầu. Người ta mong muốn, ước mơ, nhưng người ta không biết cố gắng để giữ dìn và hành động , để làm sao cho gia đình mãi mãi còn là những nồng ấm, thơ mộng của thuỡ xa xưa đó. Có người luôn luôn ý thức được rằng, hạnh phúc nằm trong tầm tay họ, biết vun xới, tưới bón ù, thì nó tươi tốt, hoa lá sum sê, nếu bỏ lơ là, không chăm sóc, thì cỏ dại mọc um tùm, cành lá khô héo. Nếu cố gắng đối xử vối kẽ phối ngẫu tế nhị như thuở ban đầu, và nhắc nhở nhau dìn giữ trân trọng mối giao hảo song đôi. Tương kính nhau, tránh những lời nói làm buồn lòng, làm đau lòng nhau. Mỗi ngày, vuốt ve nhau với niềm xúc cảm tràn đầy của thuỡ ban đầu. Vòng tay ôm thắm thiết, truyền cho nhau tình thương nồng nàn thấm qua làn áo, nắm tay nhau với xúc cảm chân thành, hôn nhau say đắm như nụ hôn đầu. Không phải hôn nhau chiếu lệ, không phải “ôm nhau như ôm khúc củi mục” lỏng lẽo. Khen tăng nhau, cám ơn nhau những săn sóc, những lưu ý. Dù hôm nay bà vợ có bằng đầu, bằng đuôi, như một hình vuông, và má phính núc ních, thì chồng vẫn khen vợ đẹp, đẹp dưới nhãn quan của chàng. Thế là làm gia đình vui, tin tưởng và yêu đời hơn, vợ chồng yêu nhau hơn, và yêu gia đình hạnh phúc đậm đà hơn. Nhiều bà cũng đủ khôn ngoan để biết mình chỉ là thứ nái xề, chẳng có đẹp đẻ gì với ai, nhưng đẹp riêng đối với chồng là quá đủ. Vợ chồng cũng phải biết cám ơn những chăm sóc âu yếm của nhau. Cũng nên biết nói với nhau những câu mà người ta tưởng là thừa thải, đương nhiên, không cần nói ra, đại khái như: “Cám ơn tình thương của anh/em dành cho, không ai trên đời nầy thương anh/em bằng thế nầy cả.” Người phối ngẫu, khi nào cũng cảm động nghe những lời biết ơn của đó. Nhờ vậy, tình yêu càng nồng nàn thắm thiết. Dù đã nhiều năm chung sống, làm sao cho vợ chồng còn say đắm nhìn nhau, và cảm thấy hạnh phúc êm đềm trong ánh mắt, lòng biết ơn nhau. Mỗi người biết hy sinh một ít cá tính, để hòa đồng nhau trong cuộc sống chung.

Gia đình nào cũng có một vài hủ mắm thối, nên chôn thật sâu, thật kỹ, đừng để bay mùi ra làm thương tổn đến hạnh phúc chung. Người xưa có dạy,không ai hoàn toàn. ( nhân bất thập toàn) Ai cũng có tính tốt, tính xấu. Và cuộc đời , mỗi cá nhân phải đấu tranh không ngưng nghỉ giữa cái thiện và cái ác. Khi yếu đuối, thì cái ác làm chủ, xui khiến con người làm những điều tệ hại. Có những cái người ta biết là không tốt, nhưng vẫn cứ làm, như hút thuốc, uống rượu, đánh bài. Đôi khi những cái xấu nho nhỏ, làm cho con người đáng yêu hơn, cuộc sống bớt thánh thiện, nhưng lại có nhiều vui. Quá thánh thiện cũng trở thành công thức, khó khăn. Bởi vậy, chúng ta phải biết tha thứ cho người phối ngãu, những sai lầm đã phạm phải trong quá khứ, dù cố ý hay vô tình. Dù sao thì cũng là việc đã qua, không thể quay lại được nữa. Nên quên đi, đừng bao giờ moi móc ra làm khổ nhau, làm tội làm tình nhau. Chẳng ích lợi gì, mà chính là làm cho mình đau đớn, dằn vặt hơn ai hết. Sai lầm nào cũng có thể tha thứ được cả, nếu biết chấm dứt và hối lỗi. Ngay cả những kẽ giết người, đôi khi còn được pháp luật khoan thứ nữa là. Quá nghiêm khắc cuộc sống mất vui. Vã lại, mỗi chúng ta hãy tự xét mình, xem mình có hoàn toàn không? Chắc chắn là không. Tại sao mình tự tha thứ cho lỗi lầm của mình được, mà không tha thứ cho lỗi lầm của người khác, nhất là người bạn đường của mình?. Tại sao lỗi lầm của mình, thì quên mau lắm, không muốn ai nhắc nhở đến, mà cứ muốn bươi móc lỗi lầm người khác ra?. Cảm thông và tha thứ, rất cần thiết để giữ hòa khí gia đình, và giữ cho ngọn lửa ấm hạnh phúc còn cháy mãi, sáng mãi trong trái tim của mỗi người.
Tình thương thường như như giao thoa cọng hưởng. Tình thương cho đi, thì có tình thương trở về.Tình thương trở về làm nẫy sinh tình thương khác cho đi. Cứ thế mà chập chùng, mà vun dầy thêm lên. Khi ta thương yêu ai với tấm chân tình, không vụ lợi , không ích kỷ, thì sớm hay muộn , chắc chắn tình thương đó sẽ được đáp đền. Trong đời sống lứa đôi, càng cho nhiều thì càng nhận được nhiều. Tình thương thường cho đi mà không mong đền đáp, nhưng thường vẫn được đáp đền nhiều hơn mong tưởng. Ghét bỏ, hận thù, sẽ được đáp lại bằng hận thù và ghét bỏ. Không lợi cho ai cả, mà nó làm cho tâm tư u uất, làm cho cái bao tử ung thối, làm cho thân thể bệnh hoạn, yếu đuối. Không cần phải có cái tâm bồ tát đem ra thương người, chỉ cần có cái tâm thành của vợ yêu chồng, của chồng yêu vợ, hai bên trao tình thương cho nhau không ngưng nghỉ, không đắn đo, rồi từ đó tình thương thành giao thoa cọng hưởng. Gia đình hạnh phúc. Không thể nào một bên, ri rỉ tình thương, mà hy vọng nhận được tình thương tràn đầy không điều kiện.

Mỗi người hãy nhớ rằng ngày tháng qua mau, cuộc sống của con người có giới hạn. Bảy tám chín chục năm, rồi sẽ chết. Mỗi người đều có sẵn bản án tử hình treo trên đầu mà chưa thi hành. Nhưng thái độ của đa số thế nhân, như họ sẽ được cho sống đời đời, không bao giờ chết. Phải ý thức được, mỗi ngày, chúng ta bước gần đến huyệt mộ thêm một bước, không cưởng lại được. Bởi vậy, mỗi ngày sống của chúng ta rất quý báu. Mất đi thì là hết, không thể nào tái tạo, dù có tiền rừng bạc bể, quyền uy ngất trời. Làm sao cho mỗi ngày sống của chúng ta được đẹp đẻ, vui tươi, ý nghĩa và hạnh phúc. Chúng ta phải tự tạo lấy, vun xới lấy. Chờ đợi, thì nó cũng có thể đến, có thể không. Nhưng tệ hại nhất là những kẽ tự đập phá hủy hoại thời gian quý báu của mình bằng gây gổ, bằng hận thù, bằng trách móc, than vản. Phí phạm thời gian thật uổng . Người xưa, ý thức thời gian quý báu, cho nên còn có kẽ thắp đuốc đi chơi, sợ đời chóng hết. Một gia đình hạnh phúc, có đời sống lâu dài bằng hai ba lần hay cả chục lần đời sống của một gia đình bất hạnh. Thà sống hai mươi năm tràn đầy hạnh phúc, còn hơn sống một trăm năm thiếu hạnh phúc. Những gia đình thiếu hòa thuận, thì nên ngưng cuộc chiến lại, ký hiệp định đình chiến ngay để cứu vản thời gian, cứu vản hạnh phúc của đời sống cho chính mỗi cá nhân trong cuộc chiến, cho con cái và những người liên hệ. Đừng để thời gian mất, hạnh phúc phí phạm, rất uổng.
Mỗi ngày thi hành một điều hiến dâng. Vợ chồng, cứ giao ước, mỗi sáng thức dậy, cố đem lại cho nhau một niềm vui nho nhỏ. Có thể là một câu nói làm đẹp lòng nhau, có thể là một lời khôi hài, có thể là một chuyện vui trong giấc mơ, cũng có thể là một nụ hôn thật ấm từ tấm tình thương nồng nàn, không phải là nụ hôn chiếu lệ, trả nợ quỷ thần. Mỗi ngày, gắng làm vừa lòng nhau, cứ bên tung, bên hứng, hòa hợp tâm tư, hòa hợp đời sống. Cũng có những lúc bất đồng, thì phải biết nhân nhượng, mỗi người bước lui một vài bước cho đến khi đồng ý nhau, gặp nhau ở một điểm nào đó, mà cả hai đều vui vẻ chấp nhận. Khi đã chấp nhận, thì dù kết quả nào, cũng lấy đó làm vui.
Chuyện thần thoại Ấn Độ nên sưả lại rằng: Thượng đế tạo nên nhiều người đàn ông xong, thấy họ sống không có ý nghĩa, cầu bơ cầu bất, lại ăn ở dơ dáy, bẩn thỉu, hỗn độn. Ngài bèn lấy tinh hoa của trời đất, và tinh quái của yêu ma tạo nên nhiều người đàn bà, cho kết hợp với mỗi đàn ông thành vợ chồng. Giao cho mỗi cặp hai cây đàn thần, bảo rằng, nếu biết hòa điệu hòa âm, hòa nhịp, thì có được nguồn hạnh phúc vô biên, và đời sống phong phú an lạc. Nhưng nếu mỗi người chỉ muốn độc tấu riêng rẽ, không muốn hòa hợp thanh âm, thì sẽ tìm thấy địa ngục. Sau một thời gian, những cặp vợ chồng biết phát huy cái tinh anh của trời đất trong người nữ, biết hòa hợp âm thanh, thì đều mọc cánh và bay lên trời thành tiên. Những cặp chỉ biết triển khai cái tinh quái, nên độc tấu, không chịu hòa nhịp, hòa âm, đều mọc lông lá đầy mình, trở thành dã thú, chạy vào rừng trốn chui trốn nhũi. Còn những cặp khác, hòa âm, hòa điệu chưa được nhịp nhàng, ăn ý, thì vẫn còn giử lại hình thể của con người, và phải luyện tập thêm cho đến ngày mọc cánh thành tiên.
Muốn gia đình trở thành một góc của thiên đường cũng không khó. Mà muốn gia đình trở thành một xó của địa ngục cũng rất dễ. Chỉ có quyết tâm và hiểu biết của hai vợ chồng. Làm sao cho ăn nhịp, hòa điệu, biết khai thác cái vốn dồi dào trời đất sẵn ban cho. Đời sống gia đình có hạnh phúc là đạt được toàn vẹn ý nghĩa của kiếp sống, không cần phải đi tìm ở nơi nào xa xôi./.

Tràm Cà Mau