Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

Yêu hay ghét


“Love me or hate me, both are in my favor…If you love me, I'll always be in your heart…If you hate me, I'll always be in your mind.”

"Yêu hay Ghét tôi, đối với tôi đều là ân huệ. Nếu bạn yêu tôi, tôi sẽ luôn ở trong tim bạn ... Nếu bạn ghét tôi, tôi sẽ luôn nằm trong tâm trí của bạn"
― William Shakespeare

...Yêu hay ghét chỉ là biểu hiện phù phiếm của cái “tôi” ảo tưởng. Người ta yêu một đối tượng nhưng thực ra chỉ yêu chính ý tưởng được hài lòng của cái “tôi”, và ngược lại, khi cái “tôi” không như ý thì yêu bỗng biến thành ghét. Yêu ghét như con kỳ nhông đổi màu cho thích ứng với đối tượng ...

... Cái tình “yêu-ghét” chính là tấm gương để soi thấy mặt thật của mình. Điều quan trọng là con có thấy ra cái yêu, cái ghét trong lòng mình không. Chỉ thấy thôi, đừng cố gắng giải thích hay phê phán gì cả ...
Viên Minh

Singapore, Sunday, January 19, 2014
Sư ông kính mến,
Con có thắc mắc này muốn hỏi sư ông.
Làm sao để biết mình yêu hay ghét một đối tượng nào đó hả sư ông? Vì nội yêu ghét con cũng thấy nó rất vô thường. Cùng một đối tượng, mới ngày hôm qua con còn yêu thật lòng, mong muốn người ta hạnh phúc, thì qua ngày mai con đã ghét đến mức chỉ muốn nó bị xe lửa đụng thôi! Mà dần dần con nhận ra là với ai con cũng thế, lúc yêu lúc ghét. Nếu vậy thì cái nào mới là thật hả sư ông? Làm sao biết thực sự yêu hay ghét ai? (Vì cũng là họ nhưng mình thì lúc yêu lúc ghét). Và có thật là yêu thì tốt hơn ghét không? Tại sao ta phải lấp đầy trái tim bằng tình yêu (như lý thuyết hay giảng) nếu ngay chính cảm xúc yêu nó cũng như mây trên trời, đến rồi đi?
Có một người dạy con phải tập "yêu người vô điều kiện" nếu muốn tiến xa hơn trên đường tâm linh. Người đó dạy là con luôn luôn ở mức “đai trắng tâm linh” nếu vẫn còn tâm lý có qua có lại. Sư ông cho con hỏi điều này có đúng không? Có thật là con cần phải luyện yêu người vô điều kiện để tiến xa trên con đường tâm linh hay không?
Con cảm ơn sư ông nhiều và chúc sư ông luôn mạnh khỏe. Dạo gần đây con hay thắc mắc vụ yêu ghét đó. Sư ông giải thích giúp con sư ông nhé.
Con chào sư ông.
Con,
Bé Ulārā



Bé Ulārā ơi,
Câu hỏi của con dữ dội thật đó nha! Sư ông cũng sẽ giải thích dữ dội nữa đó nè, không biết con có nghe nổi không đây?
Yêu hay ghét chỉ là biểu hiện phù phiếm của cái “tôi” ảo tưởng. Người ta yêu một đối tượng nhưng thực ra chỉ yêu chính ý tưởng được hài lòng của cái “tôi”, và ngược lại, khi cái “tôi” không như ý thì yêu bỗng biến thành ghét. Yêu ghét như con kỳ nhông đổi màu cho thích ứng với đối tượng, chỉ khác là đối tượng của kỳ nhông là khách quan, còn trong tình yêu đối tượng hoàn toàn chủ quan do tưởng tượng bịa đặt. Thực tình mà nói, người ta không yêu một đối tượng nào cả mà chỉ yêu ý tưởng của mình về đối tượng ấy. Ý tưởng này rất chủ quan vì trên thực tế nó không giống như đối tượng hiện thực chút nào, nên khi con phát hiện đối tượng ấy không giống như ý tưởng ảo của mình thì yêu thương liền biến thành chán ghét.
Không phải chỉ trong tình yêu mà trong mọi lãnh vực đời sống, hiếm khi ai thấy đúng đối tượng thật, vì đối tượng mà người ta biết được chỉ là phóng ảnh ý tưởng chủ quan của họ mà thôi. Đối tượng là tấm gương để họ soi thấy bộ mặt yêu ghét của mình nhưng họ lại chỉ quan tâm phê phán tấm gương tốt xấu ra sao thôi. Nên lắm khi người ta thấy mặt mình xấu thì lại cho là tấm gương không trung thực chứ không chịu nhận ra mặt thật của chính mình! Dân gian có câu nói: “Khi yêu trái ấu cũng tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo”,  thật là chí lý phải không con?
 Vậy đó có phải thực sự là yêu không hay chỉ là cái tình hư cấu của thương và ghét, hay nói trắng ra là của tham và sân?  Đó có phải là tình yêu mà người ta nói cần phải lấp đầy trái tim hay không? Và nếu tình yêu loại này mà lấp đầy trái tim thì e rằng chẳng bao lâu nó sẽ biến trái tim thành phiền muộn, vì thực ra lấp đầy tình yêu chỉ để che giấu nỗi cô đơn, lo âu, sầu muộn đang tiềm ẩn trong tận đáy sâu của con tim luôn phập phồng sợ hãi. Đặc tính của tình yêu loại này là muốn chiếm hữu đối tượng mình yêu, ít nhất là cũng trên mặt tâm lý, nhưng tất cả sở hữu đều mong manh, có được thì có mất, có lấy thì có bỏ, có hợp thì có tan… nên bản chất của nó chỉ là hư ảo.
Tình yêu không điều kiện sẽ cũng chỉ là một ảo tưởng, trừ phi người ta đã trút cạn khỏi trái tim cái tình “yêu-ghét” phù du ảo mộng đó đi, thì lập tức trái tim tự tràn đầy một tình yêu thương vốn tuôn trào bất tận. Đó mới chính là tình yêu không điều kiện - tình yêu rộng lớn vô bờ -  trong đó vắng bóng người cho và kẻ nhận. Tình yêu này vô hạn nên nó tràn ngập trái tim con chứ con không cần phải cố gắng rèn luyện để lấp đầy trái tim bé nhỏ của mình bằng một tình yêu hữu hạn. Còn trong phạm vi “yêu-ghét” thường tình thì đương nhiên phải có điều kiện, nếu không, con mà dại khờ yêu ai vô điều kiện thì… chết chắc đó nha!
Nói vậy không có nghĩa là sư ông dạy con phải trút bỏ mọi tình “yêu-ghét” đời thường, vì qua cái tình “yêu-ghét” đó con mới thấy ra được chính mình trong quan hệ với con người và cuộc sống. Như sư ông đã nói, cái tình “yêu-ghét” chính là tấm gương để soi thấy mặt thật của mình. Điều quan trọng là con có thấy ra cái yêu, cái ghét trong lòng mình không. Chỉ thấy thôi, đừng cố gắng giải thích hay phê phán gì cả, con cần thấu hiểu và cảm thông với cái gọi là tình “yêu-ghét” này hơn là muốn tìm ra điều kiện hoàn hảo cho một tình yêu lý tưởng. Điều kiện thì làm sao mà hoàn hảo được, phải không con? Nếu như con chưa hiểu được tình yêu, dù hữu hạn hay vô hạn, hữu ngã hay vô ngã, thì con vẫn còn bị chúng trói buộc, không thể nào thoát khỏi được lưới tình. Chúc con thấy ra được "cái vòng tình ái cong cong" mà “kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào” ấy để có thể hiểu ra trái tim mình và hiểu hết ý nghĩa kỳ lạ của cuộc đời.
Sư Ông.  

Singapore, Tuesday, January 21, 2014
Sư ông kính mến,
Con cảm ơn sư ông đã trả lời con thật chi tiết. Có lẽ con cần phải sống, lắng nghe và chiêm nghiệm để hiểu được hết những gì sư ông nói. Con hiểu cái phần yêu-ghét chỉ là biểu hiện của cái ta ảo tưởng rồi. Nhưng đọc thư sư ông con lại nảy ra thêm một câu hỏi khác nữa.
Có lẽ con chưa trải nghiệm cái cảm xúc yêu vắng bóng người cho và người nhận, một cảm xúc ngập tràn con tim theo kiểu vô điều kiện như vậy bao giờ sư ông ạ. Khi con yêu thiên nhiên, yêu cái cây, cái nhà, yêu cái đẹp, yêu nghệ thuật, nó cũng là biểu hiện của cái ta ảo tưởng hả sư ông?
Còn cha mẹ thương con cái vô điều kiện, ông bà thương con cháu vô điều kiện, đó có phải là tình yêu vô điều kiện đó không hả sư ông?
Nếu tất cả những điều trên không phải là tình yêu vô điều kiện sư ông muốn nói tới, thì sư ông có thể cho con một ví dụ được không sư ông?
Con cảm ơn sư ông.
À, bạn con có chia sẻ với con lịch thuyết giảng của sư ông khắp châu Âu. Sư ông bận rộn quá! Con chúc sư ông luôn luôn mạnh khỏe.
Con,
Bé Ulārā

Bé Ulārā à,
Sư ông đã nói tình yêu trong mối quan hệ thì tất nhiên là có người cho kẻ nhận rồi, nhưng trong sự tương giao thì lại hoàn toàn vắng bặt người cho và kẻ nhận. Như vậy, trước hết con phải phân biệt được mối quan hệ thiết lập có điều kiện, có chủ ý giữa người này và người kia, khác nhau như thế nào với sự tương giao tự nhiên vô điều kiện, không cần thiết lập bởi ý đồ kết nối nào cả.
“Khi con yêu thiên nhiên, yêu cái cây, cái nhà, yêu cái đẹp, yêu nghệ thuật…”thì nếu tình yêu đó tự nhiên không có ý đồ sở hữu, đương nhiên tình yêu đó không điều kiện, không có cái “tôi” đối đãi với “người” hay “vật” nào. Nhưng khi tình yêu biểu hiện như: “Cảnh thiên nhiên trước mắt rất hợp ý tôi”, “Tôi thích cây này quá”, “Ước chi tôi có cái nhà đáng yêu kia”, “Đây là cái đẹp mà tôi hằng mơ ước”, “Tôi chỉ yêu trường phái nghệ thuật này thôi” v.v… thì đã rơi vào tình yêu có điều kiện mất rồi, vì đã có phân biệt cái  này với cái kia nên đồng thời cũng phân đôi phạm trù yêu với ghét và tất nhiên liền có người cho kẻ nhận trong điều kiện hữu hạn của tình yêu.
Tình thương của cha mẹ, ông bà đối với con cháu cũng vậy, có thể vô điều kiện, có thể không, nhưng phần lớn là chỉ vô điều kiện khi có điều kiện là con cháu của mình, nên thực ra chỉ là vô điều kiện nửa vời, khó mà vô điều kiện hoàn toàn được, vì đó vẫn là mối quan hệ - có tôi và của tôi - thì đã có kẻ cho người nhận rồi, phải không con?
Tuy nhiên, nếu chưa trải nghiệm được tình yêu trong tương giao không điều kiện, không ta – người, thì trong mối quan hệ có điều kiện vẫn có tình yêu chân thật, lương thiện và tình yêu giả dối, bất lương. Nói cho dễ hiểu, tình yêu trong mối quan hệ cần có điều kiện đúng tốt - tuy còn hữu ngã nhưng có thể có vị tha - thì dù tình yêu này không hoàn hảo vẫn đem lại những điều tốt đẹp cho cả mình và người. Sư ông nhắc lại là một khi đã ở trong tình yêu có điều kiện thì đừng có dại khờ mà yêu ai không điều kiện đó nha! Cứ yêu đi rồi một ngày kia con sẽ hiểu thế nào là tình yêu hữu hạn và tình yêu thật sự vô bờ.
Nếu có một lúc nào đó tâm hồn con thật bình yên thanh thản, phản ánh mọi sự mọi vật như một mặt hồ tĩnh lặng trong veo, không yêu ai không ghét ai chỉ tràn ngập tâm hồn một sự dịu dàng, hiền hậu và con chợt mỉm cười thật hồn nhiên trong sáng với mọi người, mọi sự, mọi vật. Đó chính là tình yêu không điều kiện, không có người cho và kẻ nhận, tình yêu đó thật nhẹ nhàng như không là gì cả nhưng nó lại bao trùm tất cả đó con. 
Chúc con khám phá được sự kỳ diệu ngay trong những lúc cuộc sống thật bình thường. Sư ông đang mỉm cười khi thấy con chập chững bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, bắt đầu một cuộc phiêu lưu khám phá đầy hiểm nguy nhưng vô cùng thú vị. Hãy can đảm lên, vì cuộc đời vẫn mãi mãi là bài học duy nhất của sự giác ngộ đó con ơi.
Sư Ông.

Thư Thầy trò (55)
Tác giả: Viên Minh - Ulārā




Số độc đắc đã chia lìa đôi ta!

Hình: Vợ chồng Les và Samantha Scadding
Tháng 12, 2013, nhiều tờ báo của Âu Mỹ tổng kết những kẻ may mắn ở Anh trúng giải Xổ số Khối Âu châu (EuroMillions) với con số độc đắc tính ra Mỹ kim có thể lên tới ba bốn trăm triệu, đã tìm ra một chân lý “không phải bao giờ đồng tiền cũng tạo ra hạnh phúc” mà “tiền bạc có thể hủy diệt tình yêu.”
Báo chí đã kể lại ba trường hợp ở Anh chỉ vì trúng giải độc đắc mà chialoan rẽ thúy. Thì ra hiện đại, lời nguyền thiêng liêng “chỉ có cái chết chia rẽ được chúng ta” (Till Death Do Us Part) đã có lúc được thay thế bằng “chỉ có trúng độc đắc mới phân cách được đôi lứa chúng mình!”

Chẳng phải đó chỉ là một quan niệm khinh bạc về nhân tình thế thái mà là sự thực, có người còn bảo trúng số độc đắc, coi chừng là một điềm xấu báo hiệu cho nhiều sóng gió trong cuộc đời mới.
Vào khoảng 1937, nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) viết một tác phẩm có tên là Trúng số độc đắc. Ngày trước, ai cũng bảo họ Vũ nhận xét quá đáng về nhân tình thế thái. Nhưng đến nay mới thấy điều tác giả dự liệu đã trở thành chân lý: đồng tiền có khả năng nô lệ hóa con người và khi con người là nô lệ cho kim tiền thì bao nhiêu giá trị tinh thần sẽ bị tiêu hủy.
Cặp Les và Samantha Scadding
Cặp vợ chồng Les Scadding va Samantha Peachey-Scadding Scadding đang cống cuộc sống bình thường và tràn trề hạnh phúc, họ đều mong đổi đời để tình nghĩa phu thê càng thêm mặn nồng. Trước khi mua vé số, Les, 58, ở Caerleon, Gwent. là một thợ máy thất nghiệp, còn Samantha, 38, chỉ kinh doanh lặt vặt để kiếm sống qua ngày trong buổi “gạo châu củi quế” khi kinh tế toàn cầu suy thoái.
Thế rồi giấc mơ hoàng kim của họ thành sự thực. Vào tháng 11, 2009, họ đã trúng giải độc đắc vào loại lớn nhất của xổ số EuroMillions và ẵm vào tay 45, 5 triệu Bảng Anh (một British Pound Sterling khoảng 1,64 dollars) và toan tính việc đầu tiên là sẽ đi Barbados hưởng tuần trăng mật thêm lần nữa.
Nhưng rồi tiền bạc thay đổi nếp suy tư và cách sống của hai người. Khoảng cách giữa họ càng ngày càng xa và chỉ bốn năm sau ngày trở thành những nhà đa-triệu phú họ chia tay.
Nguyên nhân nào khiến cặp Scadding “anh đường anh, tôi đường tôi”?
Chỉ biết Samanth thường ở căn biệt thự trị giá 2 triệu Bảng Anh ở Barbados, trong khi Les Scadding vẫn quanh quẩn ở quê nhà là Gwent.
Nhưng trong chỗ thân thuộc với đôi vợ chồng này tiết lộ thì lý do khiến họ chia tay là Samantha thay đổi rất nhiều trong cuộc sống kể từ lúc trở thành giàu có, chỉ nhìn bề ngoài của thiếu phụ hồi xuân (giờ đây bà ta đã trải 42 mùa xuân trên mái tóc) thì nào là là nhuộm tóc, đi mỹ viện, tìm cách giảm ký, mua sắm hột xoàn và trang sức quý giá, và sống rất trẻ trung trong biệt thự với hội hè đình đám suốt tháng, suốt năm.
Trong khi ấy Les Scadding hài lòng với hoàn cảnh mới, sống hạnh phúc với những gì mình có và những gì mình thích trong căn nhà 1,5 triệu Bảng ở bên ngoài Usk, Gwent và làm ông bầu tài trợ cho đội banh địa phương ở Newport County.
Cặp Davis và Angela Dawes
Davis, 47 và Angela, 43 chia tay vì nguyên nhân khác. Một trong những lý do khiến cặp vợ chồng bỗng nhiên thần tài chiếu mạng trúng số độc đắc là do bất đồng ý kiến trong việc tiêu pha nên cãi vã và chia tay.
Đôi phu thê này ở Surrey, Anh quốc, thuở cơ hàn cư trú tại một căn hộ một phòng ngủ, trong tình trạng giật gấu vá vai và chẳng dám mơ ước gì hơn là đi làm đủ đóng tiền nhà hằng tháng và có bánh mì ăn trong ngày.
Nào ngờ một hôm đẹp trời, vào tháng10, 2011, đôi vợ chồng trung niên này trúng giải độc đắc 101 triệu Bảng Anh của kỳ xổ số EuroMillions. Lập tức họ rời căn hộ nghèo nàn và mua ngay một dinh thự giá 9 triệu bảng Anh và với chương trình ăn chơi cho bõ lúc cơ hàn.
Bạn bè thân thích tiết lộ thực ra vợ chồng Dave và Angela Dawes khi có tiền tỏ ra hào phóng với người thân và bè bạn, làm công việc công bình là ơn đền oán trả. Nhưng tiền bao nhiêu mà có thể làm hài lòng tất cả. Dĩ nhiên là có kẻ vui vẻ nhưng không thiếu gì người ngấm ngầm thù hận.
Từ giờ phút sống đời vương giả và đóng vai Mạnh thường quân, vợ chồng họ có nhiều bất đồng ý kiến trong việc chi tiêu và diễn ra cảnh chung giường nhưng khác mộng, rồi xung khắc mỗi lúc một thêm sâu sắc dẫn tới việc đường ai nấy đi sau hai năm son sắt thêm nhờ tiền!
Xem ra họ không phải là đôi lứa chia tay vì trúng số mà còn có một cặp khác cũng nổi danh trong tấn bi hài kịch: tiền chôn vùi tình yêu.
Adrian và Gillian Bayford
Đó là cặp Adrian và Gillian Bayford cũng dân Anh chính hiệu. Cặp Bayford vốn tin rằng trúng số sẽ khiến cho gia đình thêm thân, hương vị yêu đương thêm mặn mà nhưng khi có trong tay 148 triệu bảng Anh (khoảng 235 triệu Mỹ kim) vào tháng tám, 2012, thì tất cả thay đổi kể cả tình yêu, niềm tin vốn có dành cho nhau.
Đời sống phú quý kéo dài không lâu, chỉ 15 tháng sau họ chia tay và chấm dứt cuộc tình 9 năm vun xới, vì có dư luận rằng bà Bayford ăn vụng với người làm vườn.
Một thiếu nữ Anh, cô Callie Rogers cho biết vào 2003 trúng giải 1,9 triệu Anh kim lúc tuổi đời mới 16 và tiếp đó là ăn tiêu huy hoắc cho mỹ viện, cho ma túy và việc tùng nên hết tiền và ba lần tự tử nhưng được cứu sống!
Kinh nghiệm trúng số không ai bằng Mark Gardiner.
Phú ông nhờ trúng độc đắc Mark Gardiner từng đặt câu hỏi: “Sao nhiều người trúng số như tôi cuối cùng mất hết cả tình yêu?”
Lời than không quá đáng. Đành rằng của trời cho, với số độc đắc 22,6 triệu bảng Anh vào tháng sáu 1995, trong 20 năm qua, Mark Gardiner đã được hưởng tất cả những gì ông từng mơ ước khi còn tay trắng, nào là một dinh thự nguy nga, có “hoa chăm cỏ xén lối phẳng cây trồng,” “có hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân,” có xe Aston Martin bóng loáng nằm trong garage rộng rãi và có biết bao cuộc du lịch thích thú ở những nơi non nước xa lạ đầy đủ các thú thần tiên.
Đấy là những cái được nhưng còn cái mất cũng khá nhiều? nào là kiện tụng, nào là vợ con (ông này có tới bốn đời vợ và nhiều con cái với các phụ nữ khác nhau và khi trở thành nhà triệu phú thì biết bao con vô thừa nhận đòi chia của hoặc trợ cấp), từ đó này sinh oán hận và chê bai. Bạn bè thì cũng vậy thôi làm sao tránh được sự ghen tỵ và bất bình khi kẻ trúng số bỗng nhiên tách ra khỏi thế giới của họ và xa lánh họ. Mark Gardiner tâm sự: “Bất cứ ai chơi xổ số đểu có chương trình và kế hoạch. Nhưng thực ra không ai có thể tưởng tượng được cảm giác của mình khi thực sự có tiền…. Trúng số mang lại nhiều ganh tỵ và căm ghét. Đành rằng nó giúp giải quyết một số vấn đề mà mình phải đối phó nhưng lại nảy sinh một số rắc rối khác.”
Hiện giờ phú ông 51 tuổi chỉ còn vài người thân có trước khi trúng số mà thôi nên đôi khi cảm thấy cô độc.
Thì ra trúng số là điều ai cũng mơ ước và nếu vào một lúc nào đó có tiền từ trên trời rơi xuống thì hạnh phúc biết mấy. Tuy nhiên, như một nhà văn người Pháp đã viết: “đồng tiền là người đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu!”
Có tiền mà không biết sử dụng hay làm nô lệ cho kim tiền thì còn gì bất hạnh bằng. Có tiền mà huy hoắc tiền bạc đến mức đang có bạc triệu sau sáu năm chỉ còn 7 Bảng Anh như chàng Roger Griffiths thì quá bi đát.
Trường hợp vợ chồng Les và Samantha Scadding thì do bà vợ muốn đổi đời khi có tiền nên hạnh phúc gia đình tan vỡ. Còn trường hợp vợ chồng Griffiths sau đây thì tại anh chàng bay bướm khiến hạnh phúc tan tành sau khi tài chính “nước chảy về đông.”
Đôi vợ chồng trẻ Roger và Lara Griffiths trước 2005, sống êm đềm và đầy đủ trong một căn nhà bốn phòng ở Boston Spa ở West Yorkshire, Anh quốc, cả hai có việc làm tuy không giàu nhưng mặn nồng.
Thế rồi thần tài gõ cửa vào 2005 với vé độc đắc trúng 1,8 triệu bảng Anh.
Giàu thì phải sống như triệu phú mới được, họ thường tổ chức đi du lịch, sau Dubai, là New York, Florida và Rome và luôn luôn chọn khách sạn hạng sang như Royal Suite of St. Regis. Giàu thì thì nhau mua sắm và tưởng rằng vận may có mãi nên đầu tư bừa bãi. Riêng ông chồng đẹp trai thì tha hồ ăn chơi cho bõ lúc còn tay trắng mộng đầy bên cạnh bà vợ “hơi quê và quá thì” gặp nhau từ thuở còn đi học.
Lara đau đớn phát giác trong email của chồng có dấu hiệu ngoại tình. Roger chối và bị vợ cật vấn thì cuộc cãi nhau bùng nổ và chàng khăn gói ra đi.
Cuộc tình 14 năm tan vỡ, chồng đổ cho vợ, vợ đổ tội cho chồng về việc tiêu quá nhanh “món tiền trời cho” và hậu quả tới nước trắng tay lại mang nợ.
Lara nghĩ tới lần trúng số mà tê tái. Nếu không trúng số hạnh phúc gia đình có thể bền vững lâu dài nhưng có tiền, cuộc tình kết thúc sau sáu năm sống đời phú quý.
Nước mắt tràn trề khuôn mặt Lara tâm sự với một ký giả: “Tôi đã nhận ra trúng số không tốt như người ta tưởng đâu. Một số người sau khi trúng số lại tệ hơn lúc trước khi hưởng độc đắc, chỉ vì chúng ta thắng được món tiền chứ không kiếm ra nó. Tôi không những phải làm lại từ đầu mà hoàn cảnh còn tệ hại hơn trước khi trúng số.”

Chu Nguyễn

Làm gì để giảm đau lưng ?‏

Một số gợi ý sau từ các chuyên gia sức khỏe có thể giúp bạn giảm nguy cơ bị đau lưng, theo Times News Network. Bạn nên dành khoảng 30 phút trong ngày để tập thể dục và cần thực hiện thường xuyên.


              Ảnh: Shutterstock

Chuyên gia sức khỏe Kamini Subramaniam cho biết các bài tập thể dục đơn giản như đi bộ có thể rất hữu ích cho những người do tính chất công việc phải ngồi nhiều. Các động tác duỗi tay chân, vặn cổ, quay đầu giúp ngừa đau lưng cũng như giúp mau phục hồi từ chấn thương ở lưng.
Chuyên gia Kamini nói: “Luôn căng duỗi chân tay trước khi tập thể dục hoặc các hoạt động thể chất nặng khác cũng như trước khi đi ngủ”. Cố gắng cải thiện môi trường ngủ để có giấc ngủ ngon. Luôn ngủ trên bề mặt vững chắc để giảm đau lưng hơn là nệm mềm vì càng khiến cơn đau lưng thêm nặng. Bạn cũng cần duy trì cân nặng hợp lý; có chế độ ăn uống nhiều trái cây, rau quả và giảm các thực phẩm chế biến để tránh tăng cân. Trọng lượng quá mức có thể gây sức ép lên lưng, càng gây đau lưng. Chuyên gia sức khỏe R.Manoj cho biết hút thuốc có thể gây đau lưng. “Hút thuốc lá giảm lưu lượng máu đến cột sống và gây thoái hóa đĩa cột sống. Nhiều nghiên cứu cho thấy những người hút thuốc dễ có nguy cơ bị đau lưng hơn so với những ai không có thói quen này”, chuyên gia Manoj nói.

Nhất Linh

>> Đau lưng
>> Thói quen gây đau lưng
>> Đẩy lùi chứng đau lưng
>> Giảm đau lưng tại công sở
>> Những thói quen xấu gây đau lưng
>> Tư vấn miễn phí về đau lưng

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Bác sĩ nói gì về việc phá thai - Nghẹn đắng hình ảnh mẹ ôm con 19 tuần tuổi

Một người phụ nữ lo lắng tìm gặp bác sĩ sản khoa và nói :"Bác sĩ, tôi có vấn đề nghiêm trọng cần giải quyết. Con tôi còn chưa đủ 1 tuổi và tôi lại có thai lần nữa mà tôi lại không muốn sinh con gần nhau quá."
“Vậy cô muốn tôi phải làm sao?” Vị bác sĩ hỏi
“Bác sĩ làm ơn phá thai giúp tôi, tôi sẽ biết ơn ngài lắm”
Ông bác sĩ lặng im suy nghĩ 1 hồi và trả lời rằng :”Thưa cô, tôi có 1 giải pháp tốt hơn cho cô và nó ít nguy hiểm hơn nữa.” . Sản phụ mỉm cười và nghĩ rằng vị bác sĩ kia sẽ giúp mình phá thaiNhưng ông lại nói :” Để tránh việc cô phải cực khổ nuôi 2 đứa trẻ cùng 1 lúc, vậy hãy giết chết đứa cô đang ẵm trên tay đi. Cô sẽ có thêm thời gian nghỉ ngơi trước khi sinh . Nếu cô muốn giết 1 đứa trong 2 thì giết đứa nào chẳng được. Sẽ không có nguy hiểm gì cho cơ thể nếu cô giết đứa đang bế trên tay thay vì phá thai!”
Người phụ nữ hoảng hốt và nói : “Không được bác sĩ à! Thật tàn nhẫn khi giết một đứa trẻ”
“Tôi đồng ý” . Ông bác sĩ nói tiếp :” Vậy mà tôi cứ nghĩ cô đã sẵn sàng cho việc giết con của mình nên tôi nghĩ đó là cách tốt nhất.”Ông bác sĩ mỉm cười và nhận ra mình đã đạt được mục đích. Ông đã thuyết phục được người phụ nữ rằng không có sự khác nhau giữa việc giết đứa con trong bụng hay giết đứa con đã sinh ra. Sư tàn nhẫn là như nhau.
“Tình yêu giúp chúng ta hi sinh bản thân mình vì mục đích tốt đẹp cho người khác. Nhưng phá thai lại hi sinh mạng sống người khác vị sự ích kỷ của bản thân. !”


Nghẹn đắng hình ảnh mẹ ôm con 19 tuần tuổi

Alexis Fretz (30 tuổi, sống tại Pennsylvania, Mỹ) đang mang thai đứa con thứ 3 là một bé trai vào tuần thai thứ 19. Một vài ngày trước đó, Alexis có hẹn đi ăn trưa và trò chuyện với một cô bạn – người sắp tổ chức lễ cưới nên đã nhờ Alexis chụp hình giúp.
Khi về đến nhà, Alexis phát hiện bụng mình nhói đau và chảy máu nhẹ. Cô tự trấn an mình và gọi hỏi ý kiến của nữ hộ sinh. Ngay sau đó, Alexis đã được nữ hộ sinh khuyên đến phòng cấp cứu tại bệnh viện Kokomo ngay để kiểm tra.
Alexis đến bệnh viện lúc 6 giờ chiều và được bác sĩ cho uống 3 ly nước chờ siêu âm. Đến 7 giờ chiều, Alexis nằm lên bàn siêu âm trong khi bụng vẫn tiếp tục có những cơn co thắt. Lát sau, tim cô dường như vỡ tan nhận được kết quả ‘động trời’ từ bác sĩ. Họ đã không thể làm gì để giữ em bé lại được. Một bác sĩ đã an ủi chồng Alexis: “Tôi thật sự xin lỗi, tôi không muốn nhìn cô ấy khóc. Nhưng tôi sẽ cầu nguyện cho gia đình bạn”.


Vợ chồng Alexis nắm tay con trai Walter.


Người mẹ đau khổ bên con trai sinh non 19 tuần tuổi.

Việc Alexis sẩy thai đã khiến cả gia đình cô “choáng váng”. “Tại thời điểm đó, những cơn co thắt vẫn tiếp tục. Tôi biết đây là tín hiệu xấu. Nhưng tôi vẫn không từ bỏ hi vọng, dù đã mất con thật sự” – Alexis chia sẻ.
Ngay sau đó, các bác sĩ tiến hành lấy thai nhi ra. Một nhân viên y tế đã mang đứa bé đỏ hỏn đến bên Alexis cho biết bào thai vẫn còn thở. Tâm trạng của cô lúc đó vừa đau khổ vừa tức giận đội ngũ bác sĩ. Đứa bé được thông báo đã “chào đời” lúc 9h42 tối, và được đặt tên là Walter Joshua Fretz. Người mẹ đau đớn chia sẻ: “Khi ôm con vào lòng, tôi đã khóc rất nhiều. Đứa bé thật hoàn hảo, nó đã định hình đầy đủ. Tôi có thể nghe nhịp tim còn đập trong lòng ngực của nó. Tôi đã được ôm con, đã vuốt ve con, đã hôn lên mặt con. Và tôi sẽ trân trọng kỷ niệm này nhất cuộc đời mình”.
Cùng lúc đó, chồng của Alexis đã nhanh chóng chạy ra xe mang máy ảnh vào để ghi lại khoảnh khắc cuối cùng của cả gia đình bên em bé xấu số này.


Bố bến con lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng.


Vợ chồng Alexis luôn nghĩ rằng thai kỳ lần này sẽ hoàn hảo như lần sinh 2 bé gái đầu.

“Sinh non là điều chắc chắn không bà mẹ nào muốn tuy nhiên khi rơi vào hoàn cảnh này, rất nhiều bà mẹ lại không dám nhìn mặt con mình hoặc bị các y bác sĩ vứt bỏ đi như một thứ rác thải. Thậm chí bố mẹ còn không kịp biết đó là bé trai hay bé gái. Tôi vẫn còn may mắn vì được ôm con trên tay lần cuối cùng”, Alexis nói trong đau đớn.
Sau đó, Alexis đã quyết định chia sẻ những bức ảnh cảm động này lên trang blog cá nhân để chia sẻ với bạn bè và đặc biệt là với những người đã từng rơi vào hoàn cảnh sinh non như cô. Cô khá bất ngờ vì ngay khi đăng tải những hình ảnh này đã nhận được rất nhiều lời động viên, sự quan tâm chân thành của mọi người.
“Tôi vẫn còn khá bất ngờ khi thấy những bức ảnh này được mọi người chia sẻ và bình luận nhiều đến như thế. Dù cuộc đời con trai tôi chỉ kéo dài trong vài phút, nhưng nó đã chạm được trái tim của nhiều người” – Alexis nói.


Những hình ảnh này đã được Alexis đăng tải trên blog cá nhân và nhận được nhiều sự chia sẻ, đồng cảm.


Em bé 19 tuần tuổi đã hình thành đầy đủ các bộ phận như một đứa trẻ sơ sinh khi chào đời.


Chị gái bế em trai lần cuối cùng.

Sưu tầm

Hoa “Khổng lồ” bốn chục năm nở một lần

Các bức ảnh theo đây " Amorphophallus titanum " chỉ có thể được thực hiện mỗi 40 năm !
2 mét và 75 kg !
Amorphophallus titanum ( Araceae )
Hoa lớn nhất thế giới nở ở Mexico. Cao 2 mét và nặng 75 kg, nó có một sự tăng trưởng rất đặc biệt , nó sẽ mở ra trong ba ngày mỗi 40 năm một lần duy nhất !Phát hiện lần đầu tiên ở Sumatra vào năm 1878 bởi nhà thực vật học người Ý Odoardo Beccari ( 1843-1920 ) .
Hoa cây rarenent trong tự nhiên và càng ít khi trong "nuôi nhốt". Nó nở lần đầu tiên tại Vườn Bách thảo Hoàng gia, Kew, Vương quốc Anh.
Trong những năm gần đây, số lượng các trường hợp đã tăng lên rất nhiều hoa và nó không phải là không phổ biến mà hiện nay có nhiều hơn 5 hoa nở công bố cùng năm trên toàn thế giới .
Kích thước kỷ lục thuộc về một arum titan đã ra hoa tháng 5 năm 2003, các vườn thực vật của lâu đài Poppelsdorf Bonn với chiều cao của cụm hoa 2,74 m . Trong cuối tháng Giêng, củ của nó nặng khi thay chậu, là 78 kg .
Ngày 07 tháng mười năm 2004 tại Sydney, Australia , một arum titan với đường kính 1,33 mét đã được nở lần đầu tiên kể từ khi hạt giống của ông đã được trồng vào năm 1993.
Không có từ nào khác '' đẹp ''!!!






Sưu tầm

Sự tích hoa Anh Đào

Sakura là quốc hoa của Nhật bản. Đặc điểm của nó là rơi trong khi còn đương độ tươi thắm. Hoa anh đào tượng trưng cho tinh thần võ sĩ đạo – samurai – biết chết một cách cao đẹp.
Chuyện kể rằng, ngày xưa ở xứ Phù tang (Nhật bản) chưa có hoa anh đào như bây giờ. Tại một ngôi làng xinh xinh ven núi Phú Sĩ, có một chàng trai khôi ngô tuấn tú dũng cảm khác thường.

Năm chàng mới tròn một tuổi, có một đạo sĩ phiêu bạt ghé qua nhà, nhìn cậu bé, mỉm cười đặt vào tay người cha thanh sắt đen bóng rồi lặng lẽ ra đi. Lúc đấy đang mùa đông tuyết rơi tầm tã vị đạo sĩ đi khuất trong mưa tuyết rồi mà người cha vẫn thẫn thờ nhìn trông theo. Đặt thanh kiếm vào tay người vợ trẻ, ông nói như thì thầm: ”Hãy cất kỹ và giao thanh sắt này lại cho con trai chúng ta khi nó tròn 14 tuổi. Số phận đã an bài nó sẽ trở thành một kiếm sĩ lừng danh”.

Sau đó, cha cậu bé qua đời. Người vợ trẻ ở vậy nuôi con. Thanh sắt đen bóng được giao lại cho chàng trai năm cậu tròn 14 tuổi. Cậu rùng mình vuốt ve kỹ vật huyền bí nặng nề ấy. Một sức mạnh kỳ lạ, một khát khao khó hiểu tràn ngập vào cơ thể tươi non dũng mãnh của cậu. Người mẹ chưa kịp nói gì thì cậu đã run rẫy thốt lên trong cảm xúc nghẹn ngào: “Ta phải trở thành một kiếm sĩ nổi tiếng nhất đất nước này”. Chàng trai đến rạp đầu xin thụ giáo một võ sĩ đạo lừng danh.

Vị Samurai ngắm nhìn chàng trai từ đầu đến chân, trầm ngâm suy tư bất động hàng giờ liền. Cuối cùng ông thở dài lẩm bẩm một mình “oan nghiệt” và chấp thuận. Thời gian thấm thoát thoi đưa, tuổi 18 thanh xuân tràn trề sức sống đến với người kiếm sĩ. Tay kiếm của chàng khiến những Samurai kiêu hùng nhất cũng phải e dè. Nhưng còn thanh sắt? Chàng đã tự mình rèn nó thành thanh kiếm sáng ngời đầy uy lực, nhưng chưa được. Một thanh kiếm báu thực sự phải được tắm mình trong máu ngay trong ngày khai trận. Biết nhúng lưỡi thép uy lực này vào máu ai khi chàng chưa hề có kẻ thù, khi chàng chưa hề đối mặt với kẻ cướp, khi chàng chưa tìm được bất cứ lý do gì để quyết đấu một phen?

Lúc này người mẹ và người thầy của chàng đã khuất núi. Cô gái duy nhất của vị võ sư lừng danh năm xưa là người thân yêu còn lại duy nhất của chàng. Mỗi ngày khi nắng đã tàn lụi trên núi Phú sĩ, đêm đã tràn ngập trên xóm núi, cô gái lại buồn bã nhìn chàng ngồi bất động, trầm tư bên bếp lửa. Chàng không còn cười nữa, mắt chàng lạnh như tuyết, chàng ôm thanh kiếm mà ước mơ ngày nó được tắm mình trong máu để trở thành bảo kiếm vô địch thiên hạ.

- Anh thân yêu! Có phải chăng đối với anh thanh kiếm này là tất cả? Nếu nó không được tắm mình trong máu để ngập trong khí thiêng thì anh sẽ mãi mãi buồn đau?

Nhìn vào bếp lửa, chàng trai vuốt ve thanh kiếm trong lòng và nói chậm rãi rất quả quyết:
- Chỉ buồn đau thôi ư? Không đâu! Đối với anh, thanh kiếm là sự nghiệp, là cuộc sống, là tất cả…..làm sao anh có thể coi mình là một võ sĩ đạo chân chính khi thanh kiếm của anh chưa từng no say trong máu? Trời ơi! Anh chết mất! Sao thời buổi này yên bình đến thế? Sao không có kẻ cướp nào thúc giục anh xuống kiếm, không có kẻ cuồng ngông nào thách đấu với anh?

Cô gái mỉm cười đau đớn. Cô chỉ hỏi để khẳng định quyết tâm của mình thôi.
- Anh thân yêu! Cho em được cầm lấy thanh kiếm của chàng một chút thôi.
Cầm thanh kiếm đen bóng, sắc lạnh cô gái nhìn chàng bằng ánh mắt buồn thăm thẳm rồi đột ngột đâm thẳng vào tim. Máu trào ra ướt đẫm tấm thân mảnh dẻ của nàng, nhuộm đỏ chiếc áo Kimono trắng nõn, trinh bạch. Chàng trai hốt hoảng rú lên kinh hoàng, vươn tay rút phăng thanh kiếm khỏi lồng ngực cô gái. Dưới ánh lửa bập bùng, thanh kiếm ngời sắc xanh rực rỡ, hào quang loé lên lộng lẫy lạ thường: nó đã được no mình trong máu!

Nhưng từ đó, chàng trai hoàn toàn cô độc. Không Samurai nào thèm kết bạn với anh. Họ nhìn sang chỗ khác khi đối mặt trên con đường hẹp. Họ rời khỏi quán trà khi anh bước vào. Họ từ chối khi anh thách đấu.
Cho đến một hôm, một buổi chiều mùa đông, khi những bông tuyết đầu mùa vừa rơi, chàng trai ôm thanh kiếm đến bên mộ cô gái. Chàng thì thầm :”Tha lỗi cho anh. Anh đã hiểu ra rồi…”. Chàng bình thản cắm sâu mũi kiếm vào bụng rạch một đường mạnh mẽ và rút kiếm ra nằm gục bên cạnh mộ. Thanh bảo kiếm cắm sâu vào mộ đất….tuyết không ngừng rơi….đến sáng. Tuyết đã ôm trọn chàng trai và ngôi mộ vào vòng tay của mình. Chỉ còn lại một cây hoa lạ, mơn mởn vươn lên tươi cười, hồng thắm. Không ai biết hoa hoá thân từ thanh kiếm ấy. Người ta dặt tên hoa là Anh đào. Hoa anh đào có nhiều loại mọc được ở nhiều nơi. Nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa đươc ươm mầm và trổ bông ở vùng núi Phú sĩ.
Nhật Bản có câu : “A flower is a cherry blossom, a person is a Samurai” (Nếu là hoa, xin làm hoa anh đào. Nếu là người, xin làm một võ sĩ đạo) . Điều đó có nghĩa là, khi một võ sĩ đạo đối mặt với hiểm nguy, anh ta không run sợ trước cái chết, bởi vì, giống như hoa anh đào, anh ta sẽ tự đâm mình và gục xuống ngay lập tức, không ngần ngại.
Nhiều người tự hỏi có phài hoa anh đào là 1 loài hoa tình yêu hay không? Một tình yêu mãnh liệt vào đạo, vào sự nghiệp võ sĩ.
Đối với người Nhật Bản, hoa anh đào không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao mà còn là nỗi buồn về sự ngắn ngủi, phù dung và tính khiêm nhường, nhẫn nhịn. Cây hoa anh đào đem tặng được xem như biểu tượng hòa bình của nước Nhật với các nước khác trên thế giới. Hoa anh đào mọc ở Triều Tiên và Mĩ không có mùi hương. Trong khi đó, ở Nhật Bản, người ta ngợi ca hương thơm của hoa anh đào trong những vần thơ. Trong ngôn ngữ Nhật, nhất là trong thơ ca, chữ ”hana” (hoa) và ”sakura” hầu như đồng nghĩa.
Hoa anh đào nở báo hiệu mùa xuân đến. Suốt tuần lễ thứ hai của tháng Tư, lễ hội hoa anh đào được tổ chức khắp nơi đón mùa xuân mới và mọi người tụ tập trong các buổi tiệc ngắm hoa ”ohanami”.

Sưu tầm

Thay đổi thói quen

Thay đổi thói quen cũng chính là chuyển nghiệp, đó là cả một quá trình chứ không phải việc có thể làm dứt điểm ngay trong một sớm một chiều.
Sự thay đổi ấy tùy thuộc vào ý chí, quyết tâm của người mắc thói quen và thói quen đó thuộc loại dễ bỏ hay khó bỏ.
Một số hoạt động nào đó trong đời sống được lặp đi lặp lại dần dần sẽ trở thành tập quán, thói quen; một phần không thể thiếu trong đời sống của con người. Ban đầu con người tạo ra các tập quán, thói quen. Sau khi các tập quán, thói quen hình thành chúng trở lại chi phối con người, con người xem chúng như những nhu cầu của đời sống.

Những ai có thói quen hút thuốc, khi không có thuốc thì họ sẽ mất tỉnh táo sáng suốt, cảm giác thèm thuốc hành hạ họ rất khổ sở. Người nhà quê ngày trước thường hay dán đuôi điếu thuốc rê vào cột nhà sau khi hút xong. Khi nào hết thuốc thì gỡ những đuôi điếu thuốc vấn đó xuống hút cho đỡ thèm.
Còn người có thói quen uống rượu, khi không có rượu thì tay chân yếu ớt, run rẩy, tinh thần không phấn chấn, không có sức làm việc. Ngày trước có một thời gian Nhà nước cấm nấu rượu, những người nghiện rượu không biết phải làm sao, bèn lấy men đem chôn dưới gốc cây dừa, mỗi khi thèm rượu thì hái dừa xuống uống. Họ bảo rằng chôn men lâu ngày dưới gốc dừa, khi uống nước dừa có mùi giống như rượu, có cảm giác như uống rượu, tuy không bằng rượu nhưng cũng đỡ thèm.
Người có thói quen cờ bạc, khi không có tiền để chơi thì cảm thấy ngứa ngáy tay chân, khó chịu trong lòng, có người không chịu nổi phải vay mượn tiền để chơi, hoặc lấy đồ nhà đem cầm đem bán, thậm chí sinh tâm trộm cướp. Mấy người ghiền số đề thì khi ngủ thường thấy người cho số để đánh, hoặc thấy trúng đề, lúc thức lúc ngủ thấy bất cứ chuyện gì cũng đem ra bàn để đánh số. Những người ghiền đề dù tán gia bại sản cũng khó bỏ thói quen đánh đề.
Nhiều thanh niên trẻ bây giờ có thói quen, hễ tối đến thì nhảy lên xe chạy ra đường, hôm nào không ra đường là không chịu nổi. Họ đi đâu? Ra các quán cà-phê, quán nhậu, ngồi đó nhâm nhi tì tì, rung chân huýt sáo, thả hồn theo tiếng nhạc hoặc tiếng tỉ tê của mấy cô phục vụ, tiếp viên. Có người thì đến các quán bar, vũ trường để tham gia các hoạt động ồn ào náo nhiệt.
Nhiều người đàn ông, phụ nữ đã có gia đình cũng thế, cũng tạo cho mình những thói quen như vậy, vì thế mà sự ấm áp trong gia đình không còn nữa, tình cảm gia đình ngày càng nhạt phai. Bởi sáng thì cả nhà tản ra đi làm, tối về lại chạy theo niềm vui riêng của mình, ai cũng có chỗ để đi, cho nên các thành viên trong gia đình đâu có thời gian gặp mặt, ngôi nhà chỉ là chỗ nghỉ qua đêm. Sau thời gian làm việc cần được nghỉ ngơi, có không gian thư giãn, giải trí, tuy nhiên việc ra quán cà-phê, quán nhậu, vũ trường đã trở thành một thói quen, khi không thực hiện thì mình cảm thấy khổ.
Trong xã hội tiêu thụ, người ta nghĩ nếu có nhiều điều kiện vật chất, được tiêu thụ càng nhiều thì đời sống sẽ là thiên đường hạnh phúc. Chính vì thế mà phải “cày bừa” từ sáng tới tối, đến bữa ăn phải mang công việc lên mâm cơm, đến giờ ngủ phải mang công việc lên giường ngủ. Bao nhiêu sự lao tâm khổ trí đều chỉ vì thói quen hưởng thụ do mình tạo ra. Mình tự tạo cho mình thói quen hưởng thụ và chiều theo nó, nô lệ cho nó, làm ra bao nhiêu tiền của vật chất cũng không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Bởi vì khi làm ra được thêm tiền của, có được thêm nhiều điều kiện hưởng thụ thì người ta lại tạo thêm cho mình những thói quen mới, có tiền nhiều thì xài nhiều, hưởng thụ nhiều hơn, đó chính là thói quen đua đòi, hưởng thụ.
Con người ngày nay bị nhiều thói quen làm khổ, nào là thói quen ăn chơi hưởng thụ, thói quen đỏ đen (bài bạc, cá độ, đá gà, số đề…), thói quen chưng diện, thói quen lười vận động, thói quen đua đòi, tranh cạnh, thói quen mua sắm, thói quen xa xỉ, thói quen ong bướm, quan hệ tình cảm, giới tính bừa bãi, thói quen bấm điện thoại, lên mạng internet tán gẫu, chơi game, xem phim ảnh bạo lực, đồi trụy v.v… Hầu hết các thói quen, nghiện ngập trên đều làm khổ con người, làm khổ bản thân và những người thân của mình, những người xung quanh, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng, xã hội.
Việc thay đổi thói quen, bỏ những thói quen xấu, có hại là điều rất cần. Muốn làm được điều đó, bản thân người có thói quen phải ý thức được tác hại của thói quen mình mắc phải. Phải nhận thức rõ tác hại của nó và quyết tâm từ bỏ, sau đó mới thực hiện các biện pháp cần thiết.
Không tạo cơ hội, điều kiện cho thói quen đó tiếp tục. Ví dụ người có thói quen hút thuốc, uống rượu thì nên tránh xa hoặc hạn chế tiếp xúc với những người hút thuốc, uống rượu. Không để mắt tới những nơi có bán rượu, thuốc lá, không mua những thứ đó cất chứa trong nhà và cũng không mua giùm người khác (vì nó gợi lại những ham muốn, thèm thuồng).
Tạo những thói quen tốt, có lợi để dần dần thay thế những thói quen xấu, có hại. Sinh hoạt lành mạnh, tham gia các hoạt động nghệ thuật, thể thao, từ thiện, công ích, các hoạt động tâm linh, hoạt động văn hóa, học tập, nghiên cứu v.v..
Đối với những thói quen khó bỏ, người mang thói quen hoàn toàn bị lệ thuộc về tâm lý, thể chất, nếu ý chí họ kém cỏi, không mạnh mẽ để dứt bỏ thì nên bỏ từ từ, giảm dần tần suất thực hiện thói quen cho đến khi bỏ hẳn. Ví dụ như trước đây mỗi ngày hút một gói thuốc, nay giảm dần dần còn 2/3 gói, 1/2 gói, rồi mỗi ngày còn ba bốn điếu, hai ba điếu, sau đó bỏ hẳn.
Tuy nhiên điều quan trọng nhất là phải quyết tâm, có thái độ dứt khoát, không nên có suy nghĩ: “Chỉ một lần này thôi”, “Đây là lần cuối cùng rồi mình từ giã vĩnh viễn”, “Thôi kệ, bỏ từ từ, không thể bỏ ngay được” v.v...
Thay đổi được những thói quen xấu, có hại thành những thói quen tốt, có lợi chính là chuyển nghiệp thành công, là làm mới mình, làm mới đời sống của mình theo chiều hướng tích cực.

Theo: giacngo.vn

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Xuân Bên Cội Bồ Đề





Sáng nay có con chim nhỏ
Dậy sớm hót vang đất trời
Báo tin xuân về đây đó
Hương xuân lan tỏa ngàn nơi.


Vạn vật dường thay áo mới
Sau giấc ngủ dài đông miên.
Bên Cội Bồ Đề tĩnh lặng
Nhà sư vẫn thế ngồi yên.


Đông phương ánh dương bừng rạng
Một vầng tỉnh thức, hạo nhiên
Bước chân kinh hành nhè nhẹ
Đời vui ngan ngát hương thiền.

Xuân về bên ngôi Tháp Cổ
Bụt mĩm miệng cười như nhiên.
Xuôi dòng thời gian xuân vắng
Môi ai vẫn nụ cười hiền.

Bốn mùa nhịp nhàng luân vũ
Kiếp người theo đó loay hoay.
Vững thân bên Bồ Đề thụ
Tâm Xuân thường tại nơi này.

Xuân gióng hồi chuông tỉnh thức
Nguyện cầu: '' hải yến hà thanh ''.
Hương Bồ Đề Tâm sực nức
Lan xa... đây đó yên lành.

Ngày xuân tay tròn sen búp
Dâng hương hoa ngát cõi đời.
Cúi xin Như Lai về ngự
Giữa lòng nhân thế nơi nơi..


Thích Tánh Tuệ

Bồ Đề Đạo Tràng trước thềm Xuân

Pháp Cú 72


Đức Phật dạy cái Ta lý trí luôn muốn biết cái chưa cần biết và muốn được cái chưa cần có, vì vậy mà quên trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại để thấy ra sự thật rốt ráo ngay đó. 
 Ví dụ trái mít non muốn biết khi già ra sao hoặc muốn được chín sao cho sớm, mà bỏ quên việc cần làm trong giai đoạn mít non tất yếu của mình thì rồi nó sẽ khô héo trước khi biết hay được điều mình mong muốn. 
Đức Phật đã cảnh báo trong Pháp Cú 72 rằng:

Quả thật điều nguy hại
Người ngu sinh sở tri
Hủy phần sáng của mình (1)
Tự chẻ đầu chính nó (2)


(1) Phần sáng của mình tức tánh biết của tự tâm trong sáng (pabhassara citta) sẵn có nơi mỗi người.
(2) Chẻ đầu chính nó tức làm cho tâm phân tán không nhất tâm bất loạn, thân tâm nhất như hay chú tâm trọn vẹn vào thực tại chân đế được. Và đó là lý do vì sao thầy không trả lời những câu hỏi không thiết thực hiện tiền. Con hiểu được ý đó là thầy rất hoan hỷ.

TS Viên Minh
Trích: Hỏi Đáp Trung Tâm Hộ Tông

Tích Truyện: 

Ngày xưa, có một người què thạo nghề ném đá sống ở Ba-la-nại. Ông thường ngồi trước cổng thành dưới gốc cây đa, ném đá vào lá cây cắt thành nhiều hình ngộ nghĩnh. Trẻ con trong thành thích ông làm cho chúng voi, ngựa. Bù lại chúng thưởng cho ông thức ăn cứng và mềm. Một hôm nhà vua đi đến vườn giải trí, ngang qua cây đa. Bọn trẻ bỏ chạy hết, để một mình ông què giữa đám chồi cây. Vua dừng chân lúc mặt trời đứng bóng và bước đi giữa đám rễ cây, mình vua phủ đầy bóng râm từng lằn sọc dọc sọc ngang. Vua ngạc nhiên, nhìn lên, thấy lá cây đa bị cắt theo hình voi, ngựa. Ðược biết đó là công trình của ông què, vua gọi ông đến bảo:
- Ta có một viên Tư tế ba hoa quá chừng. Chuyện không có gì hắn cũng bô lô ba la thật mệt. Ngươi có thể ném một hũ phân dê vào mồm hắn không?
Ông què thưa:
- Tôi làm được, đại vương! Xin cho phân dê, còn đại vương thì ngồi trước màn với ông Tư tế. Tôi ngồi sau và biết phải làm thế nào.
Nhà vua làm theo ý ông: dùng mũi dao khoét lỗ trên bức màn, và bất cứ lúc nào vị Tư tế mở miệng, ông đều ném vào một viên phân dê xuyên qua lỗ khoét. Hết hũ phân dê, ông què lay màn ra hiệu cho vua. Vị Tư tế Bà-la-môn được vua khuyến cáo là đã nuốt hết nguyên hũ phân dê, nên từ đó về sau không dám mở miệng nói với vua. Nhờ tài khéo mà ông què được vua ban cho tám món quà và bốn ngôi làng to đẹp ở Ðông, Tây, Nam, Bắc thành. Quan đại thần của vua, cố vấn về triều chính và thần thánh cho vua, biết được bèn làm kệ:
Khéo léo, tuyệt diệu thật!
Nhưng tốt hay là xấu,
Hãy xem, người què ném
Ðược làng ở bốn bên.

Quan đại thần lúc đó chính là Thế Tôn.
Thấy người què thành công và thịnh vượng như thế, một tên kia đến xin học nghề. Ban đầu ông què từ chối. Tên kia vẫn quyết tâm theo đuổi, nên chịu khó lau rửa chân tay cho người què thời gian lâu để lấy lòng. Quả vậy, người què truyền nghề cho hắn. Dạy xong ông hỏi hắn định làm gì. Hắn thành thật cho biết sẽ đánh một con bò hay một người nào đó rồi giết đi. Ông què lưu ý hắn về tiền phạt, một trăm tiền đối với con bò và một ngàn tiền đối với mạng người. Và ông khuyên hắn nên tìm ai không có cha mẹ để khỏi nộp phạt.
Hắn vâng lời, lên đường với túm đá trong nếp áo. Thấy một con bò cái, biết là nó có chồng nên hắn không bắn. Thấy một người, hiểu anh ta có cha mẹ nên cũng bỏ qua. Rồi hắn gặp một vị Phật Ðộc Giác tên Sunetta đang đi vào thành khất thực và biết rằng người này không cha không mẹ, hắn thử tài khéo của mình bằng cách bắn vào tai của vị Phật Ðộc Giác. Hòn đá xuyên qua tai trái khiến Ngài đau nhức không thể đi khất thực tiếp tục. Do đó Ngài bay lên trời trở về lều cỏ gần thành và nhập Niết-bàn. Dân làng không thấy Ngài liền đến lều cỏ và than khóc trước nhục thân của Ngài. Tên ném đá cũng nhập bọn với dân làng, thấy thế liền thú nhận là chính mình đã bắn Ngài. Dân làng hô lên bắt tên ác nhân và đánh hắn chết ngay tại đó. Hắn bị đọa vào địa ngục A tỳ cho đến khi đại đia dâng cao một dặm. Vì nghiệp xấu ác chưa hết nên sau đó hắn tái sanh làm quỷ búa tạ trên đỉnh Linh Thứu.
Thế Tôn kể chuyện xong liền dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Nếu một người ngu có tài khéo hay quyền lực sẽ rất tai hại, vì chính hắn làm khổ hắn.

Và Phật đọc Pháp Cú:

Quả thật điều nguy hại
Người ngu sinh sở tri
Hủy phần sáng của mình
Tự chẻ đầu chính nó 


Theo: http://www.budsas.org/

Hoa trong kinh Pháp Cú

Mùa Xuân - ngày tết, trong mọi gia đình, dầu nghèo hay giàu, nhà nào cũng đều có hoa. Hoa không thể thiếu trong mọi nhà như một phong tục thiêng liêng của những ngày đầu năm mới... Mùa Xuân vắng hoa như ngày vắng ánh mặt trời. Ngày tết không hoa, như trăng thanh không có gió mát. Có một nhà văn đã nói: nơi nào có nhiều hoa, nơi ấy sẽ có cuộc sống dễ chịu. Hoa đã đi vào đời sống tinh thần của mọi người và được yêu quý trân trọng.
Suốt bốn mươi lăm năm thuyết pháp, đức Phật đã giảng nói rất nhiều pháp ngữ. Chúng ta cũng đã biết, hết thảy Phật pháp đều cùng bắt nguồn từ thân giáo, ngữ giáo của đức Thế Tôn. Và vạn pháp đều là Phật pháp. Hoa cũng là Phật pháp. Qua các loài hoa, hình tượng hoa, gần gũi trong cuộc sống, đức Phật đã vì đó mà nói pháp - tùy duyên làm phương tiện giảng dạy, cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh ; tiến đến bờ An Lạc. Trong 26 phẩm của kinh Pháp Cú, phẩm Hoa (Puphavaggo - Ngài Ngô Chí Khiêm còn dịch là Vương Hoa) đức Phật đã từ hoa mà có những lời dạy giản dị nhưng rất thâm thúy ; khai sáng cho mọi người giác ngộ lẽ thật, ý thức được con đường giải thoát đang tiến bước... Khởi từ một kinh nghiệm thông thường nhất của người chơi hoa, chọn hoa, là một loại hoa được gọi là "đẹp" - có giá trị toàn vẹn, phải là loại hoa có cả hương và sắc. Hoa chỉ có sắc - dù là đủ màu sặc sỡ, mà chẳng có chút mùi hương thì giá trị của nó cũng sẽ chẳng có gì - đức Phật đã dạy:
"Như hoa tươi đẹp chỉ phô trương màu sắc mà chẳng có hương thơm, những người chỉ biết nói điều lành mà không làm điều lành chẳng đem lại lợi ích" (PC 51).
Lý thuyết luôn luôn dễ, thực hành mới khó. Từ lời nói đến việc làm, là một khoảng cách khá xa, đòi hỏi rất nhiều thành tâm, thiện chí mới có thể áp dụng được. Trong cuộc sống, ngoài xã hội, có biết bao nhiêu người đã từng nói nhiều lời hay, ý đẹp, nhưng rút lại, thực tế đã làm được bao nhiêu phần trăm? Thậm chí có lúc đã đi ngược lại những lời đã nói. Ðó là một sự dối trá không thể tha thứ , gây nhiều tội lỗi. Dùng lời lẽ tốt đẹp để làm tấm bình phong che đậy tà tâm, "tuy có biệt tài lưu loát, tướng mạo đoan trang, cũng chẳng phải là người lương thiện" (PC - 262). Ngược lại , hoa có đủ màu sắc và hương thơm luôn là loài hoa được mọi người tôn quý: "Như thứ hoa tươi đẹp vừa có màu sắc lại có hương thơm, những người nói điều lành và làm được điều lành sẽ đem lại kết quả tốt" (PC - 52). Ví con người như loài hoa - màu sắc và hương thơm, cái bề ngoài và bên trong, thân và tâm, vọng và chơn. Ðức Phật đã khẳng định với tất cả: "Chỉ có hương đức hạnh của người chân chính tuy ngược gió vẫn bay khắp muôn phương" (PC - 54). Và cao hơn nữa :"Hương Chiên đàn, hương Ða già la đều là thứ hương vi diệu nhưng không bằng thứ hương đức hạnh xông ngát tận chư Thiên" (PC - 56).
Con người được đức Phật ví không phải là một cánh hoa, mà là một "đống hoa"- từ đống hoa ngạt ngào hương sắc ấy, chúng ta có thể "kết thành nhiều tràng hoa" hiến dâng cho đời, cúng dường chư Phật. Cúng dường chư Phật bằng hương đức hạnh của chính mình, mới thật sự là cúng dường chân chính, cao cả, bởi vì: "... Trong tất cả các thứ hương chỉ thứ hương đức hạnh là hơn cả!" (PC - 55) - đức Phật đã dạy rõ: "như từ đống hoa có thể làm nên nhiều tràng hoa, như vậy, từ nơi thân người có thể tạo nên nhiều việc thiện" (PC - 53).
Ngày tết, trên bàn thờ Phật - Tổ, bàn thờ tổ tiên, phòng khách, trước sân... nơi nào cũng được chưng bày hoa. Hoa đã đem lại niềm vui; hoa đã an ủi, xoa dịu nỗi buồn; hoa cũng đã nuôi nấng lòng hy vọng cho mọi người trong những ngày đầu năm mới. Chúng ta nhìn hoa, ngắm hoa - cũng tưởng nhớ đến những lời đức Thế Tôn đã dạy; luôn luyện làm theo lời Phật, sống An lạc cho chính mình, và đem lại nhiều nguồn an vui cho kẻ khác.

Mang Viên Long

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Mong manh và ngắn ngủi

Hãy thử tưởng tượng đi chỉ 5 phút thôi thân thể này sẽ biến thành tro ngay lập tức trong lò thiêu, hoặc da thịt này sẽ sình thối, nứt nẽ chảy nước rồi rã ra với mùi hôi thối nực nồng,
Chỉ vài phút thôi khi hơi thở không còn trong thân xác này thì một dấu chấm hết, không còn gì cả, mất tất cả , không còn 1 dấu vết gì của 1 con người này trên thế gian cả ! biến mất như 1 cơn gió thổi qua ! chỉ còn là hư không .Vậy mà ta đã tốn không biết bao nhiêu công sức nuôi dưỡng cái thân này, bao nhiêu công sức xây dựng cơ ngơi, hoạch định tương lai lâu dài, dùng hết cả sức lực của mình đấu tranh giành giựt, tính toán thâu đêm để rồi chỉ 5 phút thôi tất cả thành tro bụi ngay lập tức, ta có giống con Dã Tràng không ? xây dựng lâu đài cát cho sóng biển cuốn đi .
Ngắn ngủi làm sao 1 kiếp người, mong manh làm sao 1 cuộc đời, ta bất lực với sự chấm dứt của nó, không thể kéo dài, không thể van xin mà thật ra keó dài để làm chi nếu sự tồn tại của con người chỉ là 1 chuổi những phiền muộn, lo toan, tranh giành, tính toán, hồi hộp, giận hờn, đau đớn bệnh hoạn, chứ có phải là cuộc sống thiên đàng đâu.
Thế mà chúng ta không nhận ra giá trị của sự tồn tại cái thân này để tận hưởng và sử dụng cho xứng đáng những tháng ngày nó còn tồn tại, để khi nó hoại ta không thấy tiếc nuối mà sẽ hài lòng vì mình đã sử dụng, sống đầy ý nghĩa 1 cuộc đời .
Nhận thức sâu sắc về thực tế này là 1 sự chánh niệm, tỉnh thức đầy trí tuệ, nó giúp ta sống đúng nghĩa, cư xử hợp lý, hành động không nông nổi bởi ta biết được hạnh phúc trong thực tại mới có ý nghĩa, còn những gì mong đợi cho tương lai, kiếp sau thật hư vọng.
Tin sâu nhân quả, sống thuận theo nhân quả, tức biết những gì xấu nên tránh, những gì thiện nên làm là ta đã tiên đoán được 1 cuộc đời tiếp theo của thân này rồi vậy có cần thiết phải quá lo lắng “ ta sẽ về đâu sau khi bỏ thân này không ? “
Hãy sống thật sự, hãy cảm nhận từng phút giây trong hiện tại, ta còn đây, hiện hữu ngay giờ phút này, hãy hạnh phúc với những gì mình đang có, trân trọng nó.
Hãy tự nhủ mình sẽ là cơn gió mát cho những tâm hồn nóng nảy, là bóng râm cho những người bạn lử hành, là ánh đèn cho người đi trong đêm đen.
Lợi lạc thay 1 cuộc đời.
Chỉ thế thôi, tôi không cần đến đâu cả thiên đàng hay tây phương, ngay đây, ở chốn này đã đủ cho tôi rồi.

Pháp Đăng

Bài học khó quên

Đối với người Do Thái, ngoài việc giáo dục con cái phải chăm chỉ học tập, bồi dưỡng kiến thức, trau dồi trí tuệ và rèn luyện thân thể để có sức khỏe mà còn rất coi trọng việc giáo dục đạo đức, lối sống. Họ luôn khuyến khích con cái tu dưỡng tính cách, cố gắng phấn đấu trở thành một con người có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi. Đặc biệt người Do Thái thường giáo dục cho con đức tính trung thực.

Trong cuốn sách “Người Do Thái dạy con” có ghi mẩu chuyện với nội dung như sau: Hôm đó, các sinh viên năm thứ ba đại học Y khoa bắt đầu đi thực tập lâm sàng, khám bệnh. Mọi người háo hức lắm, trong cặp ai cũng mang theo sách tham khảo và dụng cụ khám bệnh. Tuy nhiên, vị giáo sư người Do Thái yêu cầu tất cả các sinh viên phải để ống nghe ở nhà, không được mang theo trong người. Giáo sư dẫn sinh viên đến cạnh giường một bệnh nhân tại bệnh viện. Ông nhìn khắp lượt các sinh viên rồi nói:
- Tôi đã động viên kỹ anh thanh niên bị mắc bệnh này rồi, để anh ta sẵn sàng nhận cho nhiều sinh viên đến khám trong buổi sáng nay. Anh ta mắc bệnh tim mạch đã lâu ngày và đã điều trị tại bệnh viện này được một tuần lễ. Tuy bệnh tình của anh ta có thuyên giảm, nhưng hiện tại nhịp tim không đều, cứ một nhịp đập nghe rõ rồi lại có hai nhịp đập tiếp theo rất yếu. Bây giờ tất cả các anh chị thực tập nghe tim anh ta bằng ống nghe của tôi.
Nói xong, vị giáo sư liền giao ống nghe của mình cho một sinh viên đứng gần đó để họ thay nhau vào nghe tim bệnh nhân. Sau khi nghe xong, người nào cũng tỏ ra phấn khởi, thanh thản, thoải mái. Họ rất cảm kích vì giáo sư đã bố trí một buổi thực tập lý thú, lại được hướng dẫn tận tình bên giường người bệnh. Đồng thời, bệnh nhân cũng tỏ ra vui vẻ tiếp nhận năng lực thực tập của đám đông sinh viên.
Kết thúc buổi thực tập, vị giáo sư tập hợp tất cả sinh viên về tại phòng giao ban bệnh viện. Khi mọi người đã ổn định chỗ ngồi, ông mới hỏi:
- Thế nào? Các anh, chị đều nghe rõ nhịp tim đập của người bệnh chứ?
Tất cả các sinh viên nhao nhao đồng thanh trả lời rằng:
- Thưa giáo sư rõ lắm ạ, đúng là anh ta bị loạn nhịp tim ạ.
Nghe xong câu trả lời của các sinh viên đã lâu, nhưng vị giáo sư vẫn im lặng không nói gì. Mãi một lúc lâu sau, ông mới đưa tay vào túi áo và lấy ra một cái nhíp nhỏ. Sau đó, ông dùng cái nhíp nhỏ ấy để rút hai núm bông đã được nhét sâu trong hai tai của ống nghe. Thì ra ông đã cố ý làm cho ống nghe bị mất hiệu lực. Làm sao có thể dùng ống nghe này mà nghe được nhịp tim của người bệnh một cách chính xác?
Sau đó, vị giáo sư nhìn đám sinh viên đang đỏ mặt vì thẹn và ông nói:
- Từ nay về sau tôi mong các bạn trẻ đừng bao giờ làm như thế nữa. Mọi người cần phải thực thà. Nếu điều gì chưa rõ thì phải hỏi cho rõ, cái gì không biết thì đừng có giả vờ làm như đã biết. Các anh chị có thể nói dối người khác chứ làm sao nói dối được lòng mình.


Sưu tầm

Chiếc lá cuối cùng

Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là ‘biệt khu’. Nhũng ‘biệt khu’ này tạo thành những góc và đường lượn kỳ lạ. Mỗi con phố tự cắt một hoặc hai lần. Một dạo, có nghệ sĩ đã khám phá ra khả năng hữu ích của con phố này. Thử hình dung, một người khi thu hoá đơn tiền sơn, tiền giấy và tiền vải vẽ đi qua phố ấy, bỗng nhiên nhận thấy mình quay lại mà chưa thu được lấy một xu nào.
Vậy nên chẳng mấy chốc cánh nghệ sĩ đổ xô dến ngôi làng Greenwich cổ kính kì quặc đó, săn tìm những cửa sổ phía Bắc, những đầu hồi thế kỉ thứ mười tám và những căn phòng áp mái kiểu Hà Lan với giá thuê rẻ. Rồi họ nhập khẩu vài cái xô chậu đúc bằng hợp kim chì và thiếc, một hoặc hai cái bếp lẩu từ đại lộ Thứ Sáu rồi hình thành nên ‘khu hoạ sĩ’.
Áp mái tòa nhà gạch ba tầng thấp tịt, Sue và Johnsy có một xưởng vẽ. Johnsy là tên gọi thân mật của Joanna. Một người từ Maine đến, còn người kia đến từ California.
Họ gặp nhau tại Table d’hôte trong tiệm Delmonico trên phố Thứ Tám và nhận thấy có cùng sở thích về nghệ thuật, về món salad rau diếp, về kiểu ống tay áo ngoài rộng và hợp nhau đến nỗi kết quả là một xưởng vẽ chung ra đời.
Dạo ấy là vào tháng Năm. Tháng Mười Một, gã khách lạ chưa hề được thấy mặt, lạnh lẽo, mà bác sĩ gọi là gã Viêm Phổi, rình rập đến khu họa sĩ, thỉnh thoảng vươn những ngón tay lạnh buốt của mình chạm vào ai đó. Khắp mạn Ðông, kẻ hủy diệt ấy hùng dũng bước đi, quật ngã hàng chục nạn nhân; nhưng khi qua những ‘biệt khu’ đầy rêu và những con phố hẹp loằng ngoằng, bàn chân gã bước đi dè dặt.
Ngài Viêm Phổi không thuộc hàng chính nhân quân tử. Một phụ nữ mảnh mai, máu kiệt dần bởi những cơn gió Tây miền California khó có thể là đối thủ chính đáng của gã đần có nắm đấm đỏ, thở dốc, già nua kia. Nhưng gã vẫn quật ngã Johnsy; cô nằm, hầu như không động đậy trên chiếc giường sắt sơn của mình, nhìn qua những ô kính cửa sổ nhỏ kiểu Hà Lan lên bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch đối diện.
Sáng nọ, ông bác sỹ có đôi mày rậm, đốm bạc gọi Sue ra hành lang.
— Ta có thể nói cơ hội sống của cô ấy chỉ còn lại một phần mười, – ông nói khi lắc nhiệt kế để thuỷ ngân hạ xuống. – Nhưng cái phần đó còn phụ thuộc vào việc cô ấy có muốn sống nữa hay không. Cái kiểu con người cứ sắp hàng bên cạnh ông chủ nhà hòm như thế thì thuốc men cũng chẳng có nghĩa lí gì. Cô bạn bé nhỏ của cô đã nghĩ rằng mình sẽ không bình phục nữa. Cô ấy có điều gì vướng mắc trong đầu không?
— Bạn ấy – bạn ấy mong ước có ngày vẽ được vịnh Naples, – Sue đáp.
— Vẽ ư? Hừ! Cô ấy không có điều gì đáng để bận tâm gấp bội lần hơn ư? – một chàng trai, chẳng hạn?
— Một chàng trai à? – Sue nói, cao giọng như thể tiếng đàn chợt buông dây. – Một người đàn ông thì tốt ư? Nhưng, không, thưa bác sỹ, không có chuyện đó đâu.
— À, vậy ra chỉ tại yếu thôi, – bác sỹ nói. – Tôi sẽ cố hết sức chữa chạy bằng tất cả vốn liếng y học của mình. Nhưng một khi bệnh nhận bắt đầu tính có bao nhiêu xe dự tang lễ của mình thì tôi phải trừ đi năm mươi phần trăm công hiệu cứu chữa của thuốc men. Nếu cô có thể làm cho cô ấy hỏi về những mốt mới mùa đông, tay áo chẳng hạn, thì tôi chắc trong mười phần cô ấy đã khá lên hai thay vì một như bây giờ.
Sau khi bác sĩ ra về, Sue vào phòng làm việc, khóc ướt đẫm cả chiếc khăn Nhật. Rồi cô bình tĩnh mang bảng vẽ vào phòng Johnsy, miệng huýt sáo một điệu nhạc Jazz.
Johnsy nằm, quay mặt về phía cửa sổ, tấm chăn trên người hầu như không gợn vết nhăn nào. Sue ngừng huýt sáo bởi tưởng bạn đã ngủ.
Cô dựng bảng vẽ và bắt đầu vẽ bức minh họa cho câu chuyện tạp chí bằng bút sắt. Những họa sĩ trẻ phải lát con đường đến nghệ thuật bằng các bức tranh minh họa cho những truyện trên tạp chí do các cây bút trẻ đã lát xuống để đến với văn học.
Khi Sue đang vẽ phác chiếc quần dài cưỡi ngựa trang nhã và chiếc kính một mắt cho nhân vật chính của truyện, anh chàng cao bồi Idaho, thì cô nghe có tiếng thì thầm lặp đi lặp lại nhiều lần. Cô bước vội đến bên giường.
Mắt Johnsy mở to. Cô đang nhìn ra cửa sổ và đếm – đếm lùi lại.
— Mười hai, – cô đếm, ngừng một lát, – ‘mười một’, rồi ‘mười’, ‘chín’; rồi gần như cùng một lúc ‘tám’ và ‘bảy’.
Sue lo lắng nhìn ra ngoài của sổ. Ðếm cái gì ở ngoài đó? Trong tầm mắt chỉ có một cái sân trơ trụi, ảm đạm và bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch cách chừng sáu mét. Một dây trường xuân già, rất già, gốc cong queo và mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Hơi thở lạnh lẽo của mùa thu đã bứt lá của nó ra khỏi thân cho đến lúc chỉ còn trơ đám cành cây gần trụi hết lá bám vào những viên gạch nẻ sứt.
— Cái gì vậy hả bạn? – Sue hỏi.
— Sáu, – Johnsy nói như thể là tiếng thì thào. – Giờ thì chúng rụng nhanh hơn. Ba hôm trước phải gần cả trăm. Nó làm đầu mình phát đau lên khi đếm. Nhưng bây giờ thì dễ rồi. Một chiếc nữa đã đi. Giờ chỉ còn năm.
— Năm cái gì hả bạn? Nói cho Sudie của bạn biết đi.
— Những chiếc lá. Trên cây trường xuân. Khi chiếc cuối cùng rơi, chắc mình cũng ra đi. Mình biết điều đó đã ba ngày nay. Bác sĩ không nói gì với bạn sao?
— Ồ, mình không nghe những chuyện nhảm nhí như vậy đâu, – Sue trách với vẻ ân cần quả quyết. – Mấy chiếc lá trường xuân già đó thì có liên quan gì đến việc bạn bình phục kia chứ? Tại bạn quá yêu các dây leo ấy, thế đấy, bạn hư quá. Ðừng có nói dại nữa! À, sáng nay bác sỹ bảo mình rằng cơ hội bình phục nhanh của bạn là – để mình nhớ chính xác lời ông ấy – ông nói cơ hội chiếm đến chín phần mười! À, đấy là cơ hội gần chắc chắn như khi chúng ta đi ô tô hay đi bộ vượt qua một tòa nhà mới ở New York. Bây giờ hãy cố ăn tí cháo và để Sudie quay lại với bức vẽ, có thế thì bạn ấy mới có thể bán cho người biên tập rồi mua rượu vang port cho cô bé ốm yếu của bạn và lườn lợn cho cái bụng háu ăn của bạn ấy.
— Bạn không cần phải mua rượu vang nữa đâu, – Johnsy nói, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. – Một chiếc nữa rơi rồi. Không, mình không muốn ăn cháo tí nào. Chỉ còn bốn chiếc lá. Mình muốn xem chiếc cuối cùng rụng trước khi trời tối. Rồi mình cũng sẽ đi theo.
— Bạn Johnsy yêu quý ơi, – Sue cúi người xuống nói, – bạn có hứa với mình là sẽ nhắm mắt và không nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi mình làm xong việc không? Mình phải nộp mấy bức này vào ngày mai. Mình cần ánh sáng, nếu không thì mình đã buông rèm xuống.
— Bạn không thể vẽ ở phòng khác sao? – Johnsy hờ hững hỏi.
— Mình thích ở đây, bên bạn, – Sue đáp. – Hơn nữa mình không muốn bạn cứ dán mắt vào những chiếc lá trường xuân ngớ ngẩn ấy.
— Khi nào bạn xong thì báo ngay cho mình nhé, – Johnsy nói, nhắm mắt lại và nằm im, tái nhợt như một pho tượng đổ, – bởi vì mình mình muốn xem chiếc lá cuối cùng rụng. Mình mệt mỏi vì chờ đợi. Mình rã rời vì suy nghĩ. Mình muốn tháo tung mọi thứ ràng buộc và dong buồm lướt đi, lướt đi tựa như một trong những chiếc lá mòn mỏi đáng thương kia.
— Hãy cố ngủ đi, – Sue nói. – Mình phải mời ông lão Behrman lên làm mẫu bức người thợ mỏ già khắc khổ. Mình sẽ đi một chốc thôi. Ðừng cố di chuyển cho đến khi mình quay lại.
Ông lão Behrman là họa sĩ sống ở tầng trệt bên dưới nhà họ. Lão đã ngoài sáu mươi, có bộ râu xoăn như bức tượng Moses của Michael Angelo, lượn như tóc từ đầu của thần Satyr xuống thân hình một con quỷ nhỏ. Behrman không thành công trong nghệ thuật. Ðã bốn mươi năm múa bút mà lão chưa hề chạm tới được gấu áo Nữ thần của mình. Lão luôn ấp ủ ý định vẽ một kiệt tác, nhưng vẫn chưa bắt đầu. Suốt nhiều năm nay, lão chẳng vẽ được gì ngoại trừ thỉnh thoảng làm mấy đường quảng cáo hay chào hàng. Lão kiếm được ít tiền bằng cách ngồi mẫu cho mấy nghệ sĩ trẻ trong khu ‘hoạ sĩ’ ấy, những người không đủ tiền thuê người mẫu chuyên nghiệp. Lão uống gin quá độ, nhưng vẫn nói về kiệt tác sắp vẽ của mình. Còn những lúc khác, lão là một lão già nhỏ thó hung tợn, luôn chế nhạo tính nhu mì của bất kì ai và luôn tự xem mình như loại khuyển đặc biệt, canh phòng bảo vệ hai nghệ sĩ trẻ ở xưởng vẽ bên trên.
Sue tìm thấy lão Behrman nồng nặc mùi rượu dâu nặng trong cái hang mờ tối của lão bên dưới. Trong góc phòng, một tấm vải trống, căng sẵn trên giá, vẫn đợi suốt hai mươi lăm năm nay chờ nét vẽ đầu tiên của bức kiệt tác. Cô kể cho lão nghe ý nghĩ lạ lùng của Johnsy và cái cách bạn ấy thực sự đuối đi, sắp lìa tung như một chiếc lá bay xa khi sự níu giữ mỏng manh của bạn ấy với thế giới này ngày một yếu hơn.
Lão Behrman, đôi mắt đỏ ngấn lệ, oang oang biểu lộ sự khinh thường và công kích của mình trước chuyện tưởng tượng ngu ngốc như thế.
— Chà! Trên thế gian này còn có người ngốc đến độ muốn chết vì những chiếc lá lìa xa cái dây leo dớ dẩn kia ư? Ta chưa bao giờ nghe chuyện nào như thế cả. Không, ta sẽ không ngồi làm mẫu lão già đần độn khắc khổ ù lì của cô đâu. Sao cô lại để cái chuyện ngu ngốc ấy chui vào óc của cô ta? Ôi, tội nghiệp thay cho Johnsy bé bỏng.
— Bạn ấy ốm yếu lắm, – Sue nói, – và sốt đã làm đầu óc bạn ấy đâm bệnh hoạn, đầy rẫy những ý tưởng hoang đường. Thôi được, bác Behrman à, nếu bác không ngồi mẫu cho cháu thì cũng chẳng sao. Nhưng cháu nghĩ bác là một lão già cục cằn, ba hoa, lọm khọm.
— Cô đúng là đồ đàn bà! – lão Behrman hét lên. – Ai bảo ta không ngồi mẫu? Ði nào. Ta đi cùng cô. Ta đã nói suốt nửa tiếng đồng hồ rằng ta sẽ làm mẫu rồi cơ mà. Lạy Chúa! Ðây không phải là nơi để một người tử tế như cô Johnsy nằm dưỡng bệnh. Hôm nào đó ta sẽ vẽ kiệt tác đó và tất cả chúng ta sẽ giã từ chốn này. Lạy Chúa! Ðúng đấy.
Johnsy đang ngủ khi hai người lên gác. Sue kéo rèm xuống che kín cửa sổ rồi ra hiệu cho lão Behrman sang phòng bên. Ở đấy, họ lo lắng nhìn ra cửa sổ, về phía cây trường xuân. Rồi hai người im lặng nhìn nhau một lát. Một cơn mưa lạnh, dai dẳng lẫn với tuyết đang rơi. Vận chiếc sơ mi xanh cũ, Behrman ngồi trên cái ấm lật úp, giả làm hòn đá trong tư thế người thợ mỏ khắc khổ.
Sáng hôm sau, Sue thức giấc sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ, cô bắt gặp đôi mắt mở to, vô cảm của Johnsy nhìn trân trân vào tấm rèm xanh nơi cửa sổ.
— Kéo hộ nó lên đi; mình muốn nhìn, – cô thì thào giục.
Sue miễn cưỡng nghe lời.
Nhưng, kìa! Sau một đêm mưa quật, gió mạnh lồng lộng không ngớt, trên bức tường gạch kia chiếc lá trường xuân vẫn đứng nương vào vách. Ðấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn xanh thẫm nơi gần cuống lá, nhung quanh rìa đã ngả màu vàng sẫm và hư hoại; chiếc lá vững chãi bám chắc vào cành cây cách mặt đất chừng sáu mét.
— Ðấy là chiếc lá cuối cùng, – Johnsy nói. – Mình tưởng chắc nó đã rơi đêm qua rồi. Mình nghe tiếng gió. Hôm nay chắc nó sẽ rơi và lúc ấy mình cũng sẽ chết.
— Bạn yêu quý, – Sue nói, mặt hốc hác cúi xuống gối, – nếu bạn không nghĩ về bản thân thì hãy nghĩ đến mình. Mình biết làm gì bây giờ?
Nhưng Johnsy không trả lời. Trên cõi đời này, cái cô độc nhất là một linh hồn đang chuẩn bị sẵn sàng để đi xa trên hành trình bí ẩn của nó. Ý nghĩ đó dường như chế ngự cô mạnh hơn khi từng tí, sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này đang chùng ra.
Ngày trôi qua và ngay đến khi trong ánh hoàng hôn họ vẫn còn thấy chiếc lá trường xuân cô đơn bám chặt lấy thân cây tựa trên bờ vách. Và rồi khi bóng đêm tràn đến, gió bắc lại lồng lên trong lúc mưa vẫn nặng hạt quật vào cửa sổ, rơi xuống từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan.
Lúc trời vừa hửng sáng, Johnsy tàn nhẫn yêu cầu kéo rèm lên.
Chiếc lá trường xuân vẫn còn đó.
Johnsy nằm nhìn nó hồi lâu. Lát sau cô gọi nhẹ Sue, đang nấu cháo gà cho cô trên cái bếp ga.
— Mình đúng là đồ tệ thật, Sudie à, – Johnsy nói. – Cái điều đã khiến chiếc lá cuối cùng kia nằm đấy đã cho mình thấy mình là kẻ nhẫn tâm như thế nào. Muốn chết là tội lỗi. Bây giờ bạn cho mình xin một tí cháo, ít sữa có pha tí rượng vang, và… khoan đã, đưa cho mình chiếc gương tay trước rồi sắp mấy cái gối quanh mình, mình sẽ ngồi dậy xem bạn nấu.
Một giờ sau cô nói:
— Sudie à, hôm nào đó mình hi vọng sẽ vẽ vịnh Naples.
Buổi chiều bác sỹ đến, khi ông về, Sue kiếm cớ để theo ra hành lang.
— Thoát rồi, – bác sỹ nắm bàn tay gầy guộc run run của Sue và nói. – Bằng tài chăm sóc khéo léo, cô đã chiến thắng. Bây giờ tôi phải đi thăm một ca khác ở dưới lầu. Behrman, tên ông ấy… tôi chắc đó là một nghệ sĩ. Cũng bị viêm phổi. Ông ấy đã già yếu mà bệnh tình thì lại nguy kịch. Không còn hi vọng, nhưng hôm nay ông ấy sẽ nhập viện để được chăm sóc kỹ càng hơn.
Hôm sau bác sỹ bảo Sue:
— Cô ấy đã qua cơn hiểm nghèo. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần bồi dưỡng và chăm sóc chu đáo, thế thôi.
Chiều hôm ấy Sue đến bên giường, nơi Johsy đang nằm bình thản đan nhì nhằng chiếc khăn choàng len xanh thẫm và choàng tay ôm lấy người Johnsy với cả đống gối.
— Mình có chuyện kể đây, chuột bạch này, – cô nói. – Hôm nay, bác Behrman mất vì viêm phổi ở bệnh viện. Bác chỉ ốm có hai ngày. Sáng hôm đầu tiên, người gác cổng đã thấy bác quằn quại đau trong phòng của bác nơi tầng trệt. Giày và quần áo bác ướt sũng, lạnh băng. Họ không thể hình dung bác đã ở đâu vào cái đêm khủng khiếp như thế. Rồi khi họ tìm thấy chiếc đèn lồng, hãy còn sáng và cái thang đã bị kéo khỏi chỗ của nó, mấy chiếc bút lông vương vãi và một bảng pha mầu với xanh vàng hòa lẫn, và… nhìn ra cửa sổ kia, bạn, chỗ chiếc lá trường xuân cuối cùng ấy. Bạn không ngạc nhiên là tại sao nó chẳng hề rung rinh hay di chuyển khi gió thổi? Ồ, bạn thân thương ơi, đấy là kiệt tác của bác Behrman… bác vẽ nó ở đó vào cái đêm chiếc lá cuối cùng rơi.

O’Henry

Lê Huy Bắc dịch

Câu chúc Tết nào hay nhất cho năm Ngựa?

Theo dân gian, với năm Ngựa, câu chúc "Mã đáo thành công" sẽ là câu chúc Tết hay nhất. Câu chúc “Mã đáo thành công” phù hợp với cả người làm kinh doanh, lẫn người chinh phục con đường quan lộ. Như vậy, Tết năm nay, bên cạnh lời chúc sức khỏe, bạn có thể gửi đến bạn bè, người thân, gia đình, câu chúc "Mã đáo thành công" cho một năm mới 2014 đầy hứa hẹn.
Dưới đây là những câu chuyện thú vị xung quanh câu chúc "Mã đáo thành công".
Lý giải câu chúc “Mã đáo thành công”

“Mã đáo thành công” dịch nôm có nghĩa là “ngựa về ắt sẽ thành công” hay “có ngựa ắt sẽ thành công”. Ý nghĩa của câu chúc trên gắn liền với những lý giải như sau:
Xưa kia, ngựa là phương tiện đi lại thuận lợi nhất vì ngựa chạy nhanh, sức bền, thông minh, trung thành. Cuộc sống con người khi xưa rất gần gũi với loài ngựa. Ngựa cùng con người đồng cam cộng khổ trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động, đi lại buôn bán và cả khi ra trận.
Mỗi lần đi làm ăn xa, ngựa cùng con người có khi đi cả năm cả tháng. Khi ra chiến trận, thường “đi mười về một”. Vì vậy, “mã đáo” - “có ngựa quay về” - chính là một hình ảnh ẩn dụ cho sự thành công bởi còn người là còn tất cả.

Ngoài ra còn có một cách lý giải khác: Thời xưa, người Trung Quốc ở phương Bắc sinh sống trên các bình nguyên, đồng cỏ thường gia tăng số lượng gia súc trong đàn bằng cách thuần dưỡng ngựa hoang.
Đến mùa xuân, người ta thường thả ngựa nuôi trong nhà vào các cánh rừng để những con ngựa này dụ ngựa hoang trở về trang trại khi mùa đông khắc nghiệt kéo đến.
Một khi thả ngựa nuôi trong nhà ra thì có hai khả năng xảy đến: hoặc là ngựa của mình vĩnh viễn đi mất (có thể do bị thú dữ ăn thịt, có thể bị người ta bắt mất cũng có thể do nhập đàn với ngựa hoang và bỏ đi luôn...) hoặc là ngựa sẽ quay trở về và còn dẫn theo những con ngựa hoang khác.

Vì vậy, hình ảnh ngựa quay về được coi là tượng trưng cho thắng lợi. Ít nhất, nếu ngựa về một mình, vậy là người chủ đã không mất nó, lúc này là “hòa vốn”. Nếu ngựa nhà còn dắt thêm ngựa hoang về cùng là đã bắt đầu “có lãi”.
Câu chúc “Mã đáo thành công” phù hợp với cả người làm kinh doanh, lẫn người chinh phục con đường quan lộ. Câu chúc này thường được dùng vào dịp năm mới, trong năm ngựa, lời chúc “mã đáo thành công” càng trở nên phù hợp và ý nghĩa.
Lý giải tranh phong thủy “Mã đáo thành công”

Các bức tranh về ngựa vốn được xếp vào hàng những món đồ phong thủy. Nhiều người thường chọn hình tượng ngựa để trang trí trong nhà hay tại nơi làm việc bởi theo quan niệm truyền thống, ngựa là con vật trung thành, kiên nhẫn, bền bỉ, nhanh nhẹn và thường mang lại may mắn, tài lộc.
Một trong những món đồ phong thủy thường thấy về loài ngựa là bức tranh ngựa phi nước đại tượng trưng cho sự phát đạt về tiền tài hay thăng tiến về danh vọng. Ngựa phi nước đại còn hàm ý về sự đi xa, rất thích hợp với những người hay đi công tác, thường xuyên bôn ba đây đó.

Nổi tiếng trong dòng tranh ngựa là bức “Mã đáo thành công” thường có tám con ngựa bởi tám - “bát” (八) - khá gần âm với từ “phát”, tức là phát đạt. Tranh phong thủy “Mã đáo thành công” được sử dụng rộng rãi trong đời sống bởi nó phù hợp với nhiều đối tượng, từ người làm ăn buôn bán, theo đuổi tiền tài cho tới người đang trên đường quan lộ, tìm kiếm danh vọng.
Ở tranh “Mã đáo thành công”, ngựa biểu trưng cho tốc độ. Thời cổ, khi chưa có động cơ tân tiến thì ngựa là loài vật chuyên chở có tốc độ cao hàng đầu. Câu nói “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” (Một lời nói ra, xe bốn ngựa cũng không đuổi kịp) đã cho thấy tốc độ ưu việt của ngựa hoặc xe ngựa chỉ thua tốc độ lan truyền của lời nói.

Tranh vẽ tám ngựa còn được cho là bắt nguồn từ điển tích “Bát tuấn đồ” kể về tám con ngựa của Mục Vương bên Trung Quốc, là vị vua thứ năm của nhà Chu.
“Bát tuấn” (tám con ngựa) có tên Xích Ký, Đạo Ly, Bạch Mã, Du Luân, Sơn Tử, Cừ Hoàng, Hoa Lư và Duyên Nhĩ. Tương truyền, cỗ xe tám ngựa của Mục Vương đã chở nhà vua rong ruổi khắp đất nước để xem xét dân tình thế thái.
Chu Mục Vương được hậu thế tôn vinh là minh quân bởi ông đã có công giúp cho nhà Chu hưng thịnh trở lại. Hình ảnh tám ngựa có lẽ trở nên nổi tiếng cũng một phần nhờ điển tích lịch sử ấy.
Dòng tranh về ngựa thường có hai loại:

Ngựa phi ra biển: Ngựa tượng trưng cho hành hỏa trong ngũ hành, biển là nước nước tượng trưng cho hành thủy. Hỏa - thủy tương khắc. Ý nghĩa của bức tranh này là mong có một ý chí vươn lên phi thường.

Ngựa phi trên đồng cỏ: Đây là bức tranh hợp với phong thủy. Ngựa mệnh hỏa, đồng cỏ gồm cả hai yếu tố mộc (cây cỏ) và thổ (đất đai). Bức tranh ngựa phi trên đồng cỏ là một vòng tròn tương sinh Mộc - Hỏa - Thổ. Treo bức tranh này, gia chủ sẽ gặp nhiều điều may mắn, thuận lợi.

Sưu tầm
__._,_.___